Thursday, February 13, 2014

TÔI BỊ BẮT - HỒI KÝ CỦA MỘT KẺ ĂN CƠM QUỐC GIA THỜ MA CỘNG SẢN - PHẦN 2

Trần Vàng Sao
- II –
Tôi nhớ rõ một hay ba ngày sau, khoảng 7 giờ sáng, bà Quy, bác sĩ chủ nhiệm khoa bảo tôi:
“Anh chuẩn bị sáng nay về Cục. Giấy tờ và thủ tục chúng tôi đã làm xong. Anh cứ đợi đây. Bao giờ tôi vào báo anh sẽ đi”.
Lát sau, bà ta quay trở lại đưa giấy tờ cho tôi:
“Xe đợi anh ngoài cổng”.
Tôi chào ông già Tuyến. Ông đưa trả tôi mấy cuốn sách, những cuốn bìa đỏ của Mao Trạch Đông bằng tiếng Pháp. Tôi nói:
“Bác cứ giữ mà đọc”.
Ông già lắc đầu:
“Cái thằng...”
Rồi ông hỏi tôi:
“Mầy đi đâu hả Đính?”
“Dạ, họ nói về Cục”.

Tôi bước ra ngoài phòng, không có ông già Giác. Tôi không chào ai hết. Mọi người bây giờ coi như không có tôi.

Tài xế là một thanh niên rất trẻ có râu quai nón. Suốt dọc đường từ Sơn Tây về Hà Nội tôi và anh ta không nói gì với nhau. Sau này rất lâu tình cờ tôi gặp anh ở Hà Nội. Anh ta chào tôi rất vui vẻ. Anh ta nói: “Anh biết không, lúc đưa anh về Hà Nội, trở về Sơn Tây tôi bị mấy ông tra hỏi đủ điều. Họ hỏi tôi trên đường đi anh đã nói gì với tôi, và tôi đã nói gì với anh. Tôi nói là anh có mời tôi hút thuốc, nhưng tôi lại không hút thuốc”.

Xe ngang qua nghĩa trang Mai Dịch, tôi chợt nhớ lại trong trận tra vấn tôi có một ông đã hỏi:

“Anh quá tệ đi anh Đính ạ. Anh nói xấu cả những đồng chí lãnh đạo của ta đã chết chôn ở nghĩa trang Mai Dịch nữa”.

“Tôi có nói thế đâu”.
“Anh không bao giờ thành khẩn hết. Đây này, có phải là anh đã viết: “...ở cái chết con người cũng không được bình đẳng. Cứ tùy theo tiêu chuẩn bao nhiêu thịt, bao nhiêu đường, bao nhiêu sữa mỗi tháng, mỗi ngày mà kẻ chết đi, người thì được chôn ở nghĩa trang Mai Dịch, kẻ thì ở Văn Điển”. Chắc anh cũng biết nghĩa trang Mai Dịch là nơi dành cho những đồng chí lãnh đạo có công lớn với cách mạng với nhân dân với đất nước?”
Đến Cục đón tiếp cán bộ B ở 11 Hoàng Hoa Thám, tôi vào trình giấy tờ. Đến lúc này, tôi cũng không biết người ta sẽ còn làm gì tôi nữa. Chắc chắn là tôi sẽ bị khảo tra nhiều lần nữa, nhưng không biết bằng cách nào. Tôi có cảm tưởng cơ thể của tôi như bị mất cân bằng. Tôi ở trong trạng thái của một người bị bắt buộc phải làm việc quá nhiều, nhưng các thớ thịt không căng lên mà lại giản ra, máu lưu thông không đều; tất cả như dồn tại một chỗ trong đầu. Tôi cứ muốn mửa.
Tôi vào phòng làm việc để trình giấy tờ. Một anh chàng rất trẻ, trắng trẻo ngồi sau bàn giấy sát cửa ra vào, chào tôi:
“A, anh Đính”.
Anh ta tên Ninh, người Quảng Nam, có quen tôi lúc ở K65. Anh ta bị thương ở trán, phía trên thái dương trái hỏm vào một lỗ bằng đồng bạc kênh năm xu. Nắng mưa gì anh ta cũng đội cái mũ cát dạ để giữ ấm đầu và đề phòng có va chạm. Hầu hết những người làm việc ở Cục đón tiếp cán bộ B này là người miền Nam, trong số này phần đông ở chiến trường ra chữa bệnh hoặc an dưỡng. Những người này nhờ quen biết thân thế vận động xin được làm việc ở đây để khỏi vào lại chiến trường và để được hưởng các tiêu chuẩn chế độ của cán bộ miền Nam. Anh chàng này cũng thế. Cha anh ta là một cán bộ cao cấp không muốn cho con trở lại chiến trường nên xin chuyển anh ta về làm việc ở đây.
Anh ta chỉ cho tôi vào phòng trong để trình giấy tờ. Phòng trong chỉ có một người đàn ông đứng tuổi ngồi sau bàn giấy. Những bàn chung quanh đều vắng người. Ông ta cầm xấp giấy tờ của tôi liếc qua rồi cất giọng:
“Anh tạm ở đây, chờ các anh ở trên giải quyết. Bây giờ anh để đồ đạc và nghỉ ngoài hội trường. Các tiêu chuẩn của anh căng tin sẽ giải quyết. Nếu anh đau, anh ra dãy nhà sau đến phòng y tế. Cơm trưa của anh tôi đã báo. Tiêu chuẩn ở đây một đồng hai một ngày. Tiền còn thừa (bốn hào) sau này anh sẽ truy lãnh. Buổi sáng anh phải tự túc, vì ở đây là cơ quan làm việc”.Hai ba người bước vào phòng cười nói, giọng Quảng, giọng Thừa Thiên, giọng Bắc... rồi tiếng máy chữ lóc cóc, tiếng gọi nhau ngoài hành lang, ở phòng ngoài...
“Thế mà tôi cứ tưởng anh hy sinh rồi chứ? Đến đây làm gì thế? Lại tiêu chuẩn chế độ chứ gì hay tìm người chứng để cưới vợ... ha ha... Thôi, thôi, ngồi đây, ngồi đây, uống trà nói chuyện cái đã”.
“Ê, chuẩn bị đi phép phải không? Xuống nhận tiêu chuẩn tế cho rồi”.
Người đàn ông đứng tuổi nhìn tôi nói:
“Thế này nghe anh Đính. Về đây tạm thời anh không được đi đâu hết, chỉ ở tại đây, chờ ý kiến của các anh. Thôi, anh ra hội trường nghỉ”.
Ở hội trường cũng có một vài người (đều là cán bộ ở chiến trường) ở xa đến liên hệ công tác nằm chờ. Tất cả đều nằm trên ghế băng. Tôi kéo mấy cái ghế băng sát vào nhau gần cửa ra vào và cạnh cửa sổ làm chỗ nằm. Tôi chắc thằng Ngô, thằng Tình, bà Ngọc Trai, ông Doãn Triều đã biết chuyện của tôi. Sắp Tết rồi. Chắc chắn những ngày tết tôi phải bó rọ ở đây một mình.
Hai hôm sau, người ta báo cho tôi chuyển chỗ ngủ. Phía bên kia đường Hoàng Hoa Thám, đối diện với Cục đón tiếp hơi chếch về phía Hà Nội, vào sâu trong hẻm có một dãy nhà mới xây làm nhà khách dành cho những người ở xa đến nghỉ lại. Dãy nhà nhiều phòng xây trên một cái hồ rau muống mới được lấp đất. Nhà mái ngói, phên tre trát vữa, chung quanh còn ngổn ngang những ụ đất đá, những đống vôi vữa bỏ dở đọng nước mưa, và tre nứa, gạch ngói vỡ rải khắp sân. Đất chỉ lấp phần nền để làm nhà, vẫn còn lại một phần hồ rất rộng, ban đêm ếch nhái kêu um nghe tức ngực. Đoạn đường từ con đường hẻm cũ vào nhà phải đổ cát lấp những hố bùn. Hai bên con đường hẻm này có một hai cái nhà nhưng mặt xây ra đường Hoàng Hoa Thám nên không có cửa ngõ. Cuối hẻm là một cái dốc, nhà thằng Ngô Thế Oanh ở sau đó, khuất sau những cây to. Tôi đã ngủ lại nhà thằng Oanh một hai lần rồi.
Căn phòng tôi ở có khoảng sáu giường, đi ngoài ngõ vào là phòng đầu tiên của dãy nhà. Có lẽ tôi là người đầu tiên đến ở đây. Tôi nằm giường ngoài cạnh cửa sổ ngó ra đường. Mưa lất phất và lạnh. Ông gác cổng Cục đón tiếp, người Nam bộ, đưa cho tôi một ổ khóa và dặn tôi khi nào đi ăn cơm nhớ khóa cửa. Ông ta nói với tôi, giọng Nam bộ pha Bắc:
“Mấy anh dặn tôi nói lại với anh là anh ở đây và không được đi đâu hết. Đến giờ, anh sang bên Cục ăn cơm”.
Tôi bỏ đồ đạc lên giường rồi ra ngồi trên bực cửa. Mùi vôi và xi măng mới hơi khó chịu. Chung quanh nhà không có cây cối gì cả. Không có cửa ngõ, chỉ có một bãi đất trống rộng mở ra đường, chằng chịt vết bánh ô tô nước đọng thành những vũng dài. Con đường trước mặt thỉnh thoảng lắm mới có người đi qua. Không có một thứ tiếng động nào cả, không nghe tiếng người nói, chỉ có tiếng ô tô chạy ngoài đường Hoàng Hoa Thám. Tất cả đều trống không và tôi một mình. Tôi ngồi ngó mưa như rắc bụi trên những vũng nước. Tôi lượm một mảnh ngói ném ra giữa sân, một mảnh rồi hai ba bốn mảnh ngói, vôi vữa chết đóng cục. Không còn cái gì để làm nữa, tôi cứ ngồi yên ngó ra ngoài. Gần một buổi sáng và hết cả ngày, hết ngồi lại nằm, tôi cứ loanh quanh luẩn quẩn một mình tôi thế này. Ăn cơm xong, trưa chiều, tôi trở về lại đây, mở cái cửa duy nhất của phòng này, tôi ngồi ngó ra giữa trời đất. Trời còn mưa lất phất, tôi mặc thêm cái áo vệ sinh. Cái áo bông vẫn chưa đủ ấm. Buổi chiều lại yên tĩnh và trống trải hơn nữa. Tôi trông trời mưa thật to, mưa ào xuống nước chảy không kịp tràn cả sân và chim, một vài tiếng chim, chim se sẻ vừa nhảy vừa hót trên sân, rồi chợt vụt bay rồi kêu toáng lên vì có bóng người. Nhưng không có gì hết. Một mình tôi, đầu óc tôi mệt mỏi, chán nản. Đêm đến, ngoài ánh sáng của ngọn đèn điện trong phòng hắt ra sân một vạt và tiếng ếch nhái, còn thì tối đen hết. Tôi thèm một miếng nước trà, nhưng không có nước sôi và ấm chén. Tôi nhai mấy viên Ka-vét cho cái bụng đỡ cồn cào. Gần nửa đêm thì điện cúp.
Sáng hôm sau, cái ông dưới bốn mươi tuổi tôi tạm đặt tên Thanh cho dễ gọi, cái ông đã khảo tra tôi ở K 65, đến gặp tôi. Ông ta nói:
“Anh theo tôi lên đây làm việc. Nhớ mang theo giấy bút”.
Tôi theo ông ra đường cái.
“Anh lên đây tôi lai”.
Ông ta chở tôi về phía Hà Nội. Gần đến vườn bách thú, ông rẽ sang một con đường phía bên phải sát đó (tôi không nhớ tên đường). Đi một đoạn dốc dài dài, ông ta đứng lại trước một dãy nhà một tầng. Ông ta không nói gì hết. Ông dắt chiếc xe Phượng Hoàng nam màu đen lên thang gác. Tôi đi theo sau. Ông ta dựng xe vào lan can hành lang, khóa lại, rồi mở cửa một căn phòng ở cạnh lối xuống thang gác.
“Anh vào đây”.
Ông ta bật điện và mở cửa sổ. Một cái bàn với hai cái ghế để sát cửa sổ có màn che bằng vải hoa. Ông ta đi vào trong mang ra một phích nước. Ông ta chế trà.
“Anh ngồi xuống đi”.
Tôi kéo ghế ngồi xuống. Ông đẩy một tách nước về phía tôi.
“Anh uống nước”.


Tôi lấy thuốc hút và uống nước. Ông ta vẫn mặc cái áo đại cán bằng nỉ màu đen, khăn quàng cổ ca rô xanh hồng đen trắng. Cái mũ lưỡi trai bằng nỉ kiểu Liên Xô cũng màu đen luôn luôn trên đầu. Ông ta xoa tay, rồi đặt hai bàn tay vào nhau lên kẹp đựng giấy tờ. Ông ta bắt đầu nói, trong lúc tôi dựa ngửa người lên ghế và duỗi chân ra dưới bàn.
“Chúng tôi đưa anh về đây là để tiếp tục làm việc với anh. Hiện nay quần chúng, cán bộ và Đảng viên ở K65 hết sức bức xúc, để anh ở đó chúng tôi xét thấy không có lợi. Số phận và tương lai của anh bây giờ là do anh quyết định đó. Anh chưa nói hết và thành thật với Đảng. Đây là cơ hội cho anh hối cải. Anh phải nói hết, nói thật, chỉ có cách đó anh mới cứu được anh. Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh kẻ chạy lại. Đảng rất độ lượng, mặc dù anh đã có những thái độ và hành động chống Đảng. Chúng tôi biết anh đang ở trong một tình trạng hết sức căng thẳng. Chúng tôi tạo điều kiện cho anh suy nghĩ thật đúng đắn về những việc làm của anh trước kia. Chúng tôi tin anh sẽ tỉnh ngộ và phải tỉnh ngộ để được hưởng lượng khoan hồng của Đảng”.
Ông ta nói, nói rất nhiều. Ông nói như giảng nghị quyết. Cách mạng miền Nam đang thắng lớn. Miền Bắc vừa đang ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa đổ hết sức người sức của chi viện cho miền Nam, đồng thời hoàn thành nghĩa vụ quốc tế của mình đối với hai nước bạn anh em là Lào và Campuchia. Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Trước mắt nhân dân ta có những khó khăn nhất định, nhưng thuận lợi là cơ bản. Nhân dân tiến bộ khắp hoàn cầu, kể cả nhân dân lao động tiến bộ Mỹ và các nước tư bản, đều đứng về phía chúng ta. Chúng ta có hai nước hậu phương lớn là Liên Xô và Trung Quốc vĩ đại cùng các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác đang hết lòng hết sức ủng hộ và giúp đỡ chúng ta. Đảng ta vĩ đại, nhân dân ta anh hùng, chúng ta nhất định thắng. Sự thất bại của đế quốc Mỹ và bè lũ ngụy quyền tay sai là tất yếu và chỉ còn là vấn đề thời gian v.v...
Ông ta nói nữa:
“Những người như anh cách mạng miền Nam đang cần. Tôi tiếc là anh đã phạm những sai lầm quá nghiêm trọng. Nhưng chưa muộn đâu anh Đính ạ. Chúng tôi muốn cứu anh, muốn cho anh trở nên người có ích cho xã hội. Cho nên điều tốt nhất, là anh phải hết sức thành khẩn trong việc khai báo. Anh phải nói hết, nói thật, không nên giấu giếm một việc, một điều gì hết. Anh phải biết rằng hôm ở K65 có những điều anh nói xấu Đảng, các đồng chí lãnh đạo và cán bộ Đảng viên, chúng tôi đã không cho anh chị em biết. Nếu họ nghe được thì chưa biết việc gì sẽ xảy ra như thế nào đối với anh. Riêng tôi, tôi tin rằng con người anh có thể cải tạo được. Anh phải trở thành một con người tốt”.
Ông ta nói có đến 20 phút, nửa giờ. Ông ta nói lúc nhanh, lúc chậm, lúc như bình thản, lúc dằn giọng. Có khi ông ta đứng dậy bậm môi, có khi ông ta nhìn ra ngoài qua khoảng trên tấm màn che cửa sổ.
“Hằng ngày anh sẽ lên đây làm việc với tôi. Mọi việc sẽ được giải quyết nhanh hay chậm là do anh. Điều mà chúng tôi yêu cầu anh phải nói rõ là về mặt tư tưởng và ý thức, lập trường, anh phải nói hết những suy nghĩ của anh về chế độ, về miền Bắc, về chiến tranh, về Đảng v.v... Thứ hai là những việc làm của anh khi ra miền Bắc. Ai đã giao nhiệm vụ này cho anh, những người đó hiện nay ở đâu, đang làm gì. Công việc của anh đã tiến hành đến đâu, và trong dự định anh sẽ hành động như thế nào? Thứ ba là mối quan hệ của anh trong những ngày ở miền Bắc. Anh giao tiếp với ai, quan hệ với ai? Anh đã tổ chức họ như thế nào v.v.. Tôi sẽ nói cụ thể hơn về những vấn đề này lúc làm việc với anh, bây giờ tôi chỉ gợi ý. Trước hết anh viết cho chúng tôi một bản kiểm điểm. Chúng tôi sẽ căn cứ vào bản kiểm điểm của anh để xem xét thái độ của anh có thành khẩn hay không, có trung thực hay không? Chủ yếu trong bản kiểm điểm này có hai điểm quan trọng mà anh phải trình bày rõ là tư tưởng và hành động của anh. Anh nhớ, tự anh phải đề ra một phương hướng sửa chữa những sai lầm của mình. Hằng ngày tôi sẽ đưa anh lên đây làm việc. Anh cứ viết, bao giờ xong chúng tôi sẽ xem lại và góp ý. Mấy ngày cũng được, để cho anh thư thả và có thì giờ suy nghĩ. Chúng tôi không hạn chế thời gian”.
Ông ta lấy trong cặp giấy ra đưa cho tôi một xấp giấy kẻ ngang màu vàng.
“Anh có bút rồi chứ? Giấy và mực đây. Buổi trưa, buổi chiều về ăn cơm anh để lại tất cả giấy tờ ở đây. Tôi nhắc lại để anh nhớ. Trong thời gian làm việc với tôi, anh không được đi đâu cả, không được tiếp xúc với bất cứ một người nào. Tôi sẽ đưa anh đến đây và đến giờ ăn tôi sẽ đưa anh về. Anh cần gì cứ báo cho tôi hoặc những đồng chí ở Cục biết. Nếu đau ốm anh đến phòng khám bệnh của Cục, mà ở đây cũng gần Viện E2. Thuốc chữa bệnh anh sẽ được cấp phát đầy đủ”.
Đến trưa ông ta chở tôi về 11 Hoàng Hoa Thám. 1 giờ 30 chiều ông lại đạp xe về chở tôi lên. Đến chiều, tôi nói với ông:
“Anh để tôi đi bộ cũng được. Đây với đó không xa lắm”.
Ông ta cắn môi, một lát sau bật miệng:
“Thế cũng được”.
Nhiều buổi ông ta đi đâu chỉ còn một mình tôi ngồi trong phòng. Tôi cũng không biết dãy nhà một tầng này là cơ quan nào, dùng để làm gì nữa. Có điều chắc chắn là giữa cái nhà câm lặng này và Cục đón tiếp không có một quan hệ công tác nào cả. Suốt thời gian tôi đến đây ít khi tôi thấy người ra vào. Dãy gác này các cửa phòng đều đóng kín. Thỉnh thoảng có một hai người đi ngang qua phòng tôi ngồi. Tôi đoán căn phòng tôi đang ngồi đây là một phòng vừa ở vừa làm việc. Căn phòng này nhỏ, chiều rộng hơn 3 mét. Một cái tủ đứng bằng gỗ tạp và một bức màn vải hoa xanh đỏ đã cũ che không hết phía sau căn phòng. Phía sau không biết dài rộng bao nhiêu, luôn luôn tối, chắc là chỗ ngủ. Khoảng kê bàn để tiếp khách và làm việc rộng khoảng 7 đến 8 mét vuông.
Trong thời gian ở đây, thỉnh thoảng giữa chừng cuộc tra vấn ông ta mời tôi ăn bánh kẹo uống nước trà và nói chuyện, chuyện nói bao giờ cũng như vừa tâm sự vừa khuyên nhủ.

“Tôi tiếc cho anh... những người như anh là nằm trong hướng đào tạo của Đảng...”

Có khi ông ta trong câu chuyện như tình cờ hỏi thăm về gia đình của tôi, anh em nội ngoại, bà con họ hàng hiện nay ở Huế sống ra sao; từ ngày thoát ly đến nay tôi có liên hệ hoặc gặp gỡ họ đến không, cuộc sống của họ thế nào... Tôi nói hết cho ông ta nghe, và ông ta có lần khi không hỏi:

“Anh thấy Sài Gòn thế nào?”

Tôi cười:

“Tôi chưa bao giờ vào Sài Gòn”.

“Thế anh so Huế với Đà Nẵng thì thế nào?”

“Tôi cũng chưa bao giờ vào Đà Nẵng”.

Tôi biết ông ta không tin, nhưng hơi sức đâu mà nói thêm nữa. Ông ta ậm ừ gì đó trong miệng, rồi gật gật cái đầu hỏi nữa:

“Anh có bà con anh em gì ở Sài Gòn hay Đà Nẵng không?”

Tôi cười hứ một cái:

“Không”.

Ông ta hỏi những câu như thế bao giờ cũng làm như hỏi cho vui để qua thì giờ trong lúc ngồi uống nước. Có lần ông ta nói là ông ta chưa thấy Huế bao giờ và bảo tôi kể sơ qua về Huế cho ông nghe. Tôi biết qua cách kể và nhận xét của tôi về một thành phố địch tạm chiếm ông ta sẽ đánh giá lập trường và quan điểm của tôi. Đang chừng câu chuyện ông ta hỏi:
“Bạn bè của anh có ai làm việc cho địch không?”
Tôi không cho câu hỏi này là ngây thơ hay tình cờ một chút nào hết. Tôi nói:
“Bạn bè tôi người nào đã đi làm việc đều làm việc cho địch hết”.
“Thế có ai là sĩ quan ngụy không?”
“Lính cũng có mà sĩ quan cũng có”.
“Bây giờ chắc có người đã lên đến cấp tá”.
“Hiện nay thì tôi không biết. Lúc tôi thoát ly, bạn bè tôi có người đã là trung úy”.
“Phần đông họ ở binh chủng nào?”
“Hải lục không quân đều có. Đa số là ở bộ binh”.
Một ngày hai buổi trong khoảng một tuần ngày nào tôi cũng phải leo lên cái thang gác lộ thiên vào ngồi trong căn phòng này để kiểm điểm với cái ông Thanh này. Khoảng 10 giờ trưa ngày thứ hai, tôi đưa cho ông ta bản kiểm điểm. Ông ta bỏ bản kiểm điểm của tôi vào kẹp giấy.
“Được tôi sẽ góp ý và bổ sung thêm. Bây giờ anh có thể về sớm”.
Trời vẫn mưa lâm thâm và lạnh. Tôi uống một chén nước cho ấm bụng. Tôi chưa xuống cầu thang vội, tôi đứng tì hai tay lên lan can ở hành lang nhìn qua bên kia đường. Khoảng sân của dãy nhà này rộng, không có cây cối. Bên kia đường là vườn bách thú. Một khoảng đất dốc của núi Nùng thấp thoáng sau các tàng lá. Tôi quàng cái áo mưa lên cổ, bước xuống thang gác. Đường Hoàng Hoa Thám thường ít người và ít xe. Nhà ăn chưa có cơm, tôi quay ra cái quán gần ngõ mua diêm thì gặp anh Doãn Triều:
“Anh Triều, anh đi đâu đó?”
Anh Triều trong cử chỉ có vẻ vội vã.
“Về chuyện của mi đây”.
Tôi ngó quanh xem có ai luẩn quẩn không.
“Mầy thiệt là thằng... Bữa trước tao với bà Trai đã bảo mầy về Trại sáng tác B, mầy không chịu. Mầy nghe tao với bà Trai thì đâu có chuyện này xảy ra. Thằng Trác hại mày chớ gì nữa”.
“Tôi nói thật với anh, tôi muốn trở lại chiến trường. Ra công tác A thì khó vào lại lắm.
“Mầy chẳng hiểu gì cả. Tao với bà Trai đang tìm cách cứu mày đây. Tao muốn nhân cơ hội này xin cho mầy về Trại sáng tác B. Nhưng họ không đồng ý. Họ bảo cần phải theo dõi mầy một thời gian đã. Mầy thấy khổ chưa. Nghe tao bữa trước là hay rồi”.
“Anh có gặp thằng Ngô, thằng Tình báo cho chúng nó biết chuyện tôi với”.
“Ở Hội Văn nghệ một số anh em đã biết rồi. Bây giờ tao cũng chưa rõ là họ sẽ đưa mầy đi đâu nữa. Bà Trai và tao sẽ tìm cách cứu mầy. Tao sợ họ đưa mầy đi K3. Mà dám lắm”.
“Tôi bây giờ khó đi đâu và gặp ai hết”.
“Tao biết rồi. Cục 78 đang theo sát mầy. Mầy cứ sống bình thường. Trường hợp có chuyện gì mầy cố tìm cách báo cho tao và bà Trai biết”.
Trước khi chia tay, anh Triều nói:
“Nhớ đừng buồn gì hết. Phải cố sống như thường. Bà Trai gửi cho mi mấy gói thuốc. Tao cũng đem chừng, chưa chắc gặp mi được”.
Cách đó hơn một hai tháng, anh Triều và chị Trai đã lên K65 nói tôi về công tác ở Trại sáng tác B, mọi thủ tục chuyển tôi đi công tác đã xong. Tôi không đi, tôi muốn vào Nam. Tôi nhớ mẹ tôi quá. Anh em bạn bè còn trong đó. Nếu ra công tác A (tức công tác ở miền Bắc), thì trở vào Nam rất khó. Lúc đó anh Triều có giải thích cho tôi rõ tôi đến công tác ở Trại sáng tác B ở Hà Nội, nhưng vẫn thuộc biên chế cán bộ miền Nam.
Lúc này tôi không hối tiếc gì về việc này. Tự tôi, tôi đã quyết định như thế.
Suốt thời gian tôi bị tra vấn, thỉnh thoảng có một vài người đến dự cuộc. Những người này đều đã có mặt trong cuộc thẩm vấn tôi ở K65, có khi họ đến giữa buổi, có khi họ đến từ đầu. Có người ngồi yên nghe hoặc chỉ ghi chép; có người thình lình trong cuộc đối đáp hỏi chen ngang một câu. Thường những người này đều có thái độ bực tức giận dữ ra mặt. Họ đứng dậy chống tay lên mặt bàn hoặc vừa theo dõi thái độ của tôi, vừa nghếch lên nghếch xuống cái đầu. Giọng lưỡi của họ bao giờ cũng nạt nộ, dọa dẫm.
“Anh nói không thành thật”.
“Anh còn giấu chúng tôi nhiều điều”.
“Không được đâu anh Đính. Anh nên nhớ anh là người có tội. Anh còn trẻ, anh phải nghĩ đến tương lai của mình. Đảng không bỏ anh đâu, Đảng sẽ khoan hồng, nhưng anh không được giấu Đảng. Đảng biết hết rồi”.
“Anh là ai? Anh hãy nói thật đi!”
“Anh đã làm gì cho địch?”
“Chúng tôi biết hết, anh không qua mặt được chúng tôi đâu”.
Rồi họ lấy những tấm ảnh chụp nhật ký của tôi, những ghi chép mà họ đã tịch thu của tôi ra, cứ theo cái đà đó, hạch sách, dọa nạt tôi. Thường họ hay kéo nhau ra ngoài hội ý to nhỏ với nhau, rồi sau đó đi vào phòng họ bảo nhau: “Cứ thế... cứ thế... ừ ừ... cứ thế...”
Ông Lai kẻ chủ chòm cuộc tra vấn tôi thường đến dự cuộc. Một hôm ông ta đưa cho tôi mấy tờ giấy có chữ đánh máy bảo tôi đọc. Đó là một bài thơ, không ghi tên tác giả, nhan đề là “Cảnh tượng”. Tôi chỉ nhớ đại ý man mán: vào một ngày mùa hè nóng dữ dội, một chàng thi sĩ bước vào một vườn hoa, có một bông hoa đỏ rực. Thi sĩ đi khỏi vườn hoa và lạc vào một khu vườn hoang, ở đó có một cây ngọc lan đang ra hoa, nhưng tầm gởi và gai gốc bám đầy. Một con cú quàng khăn đỏ đang đậu trên cành. Thi sĩ đang bàng hoàng thì một con mèo đen ở đâu đó xuất hiện. Thi sĩ hoảng hốt bỏ chạy...
Ông Lai hỏi tôi
“Anh biết tác giả bài thơ này chứ?”
“Tôi không biết”.
“Anh thấy bài thơ này thế nào?”
“Đó là một bài tả cảnh”.
Và ông ta không hỏi gì thêm nữa. Có thể họ tin tôi không biết người làm ra bài thơ này thật. Bài thơ này của Nguyễn Hữu Ngô dán trên báo tường ở Đài Giải phóng (58 Quán Sứ, Hà Nội). Bài này tôi đã đọc lâu rồi.
Khi tra vấn tôi trong bản kiểm điểm, đến mục quan hệ bạn bè, ông Thanh hỏi:
“Anh có bạn bè ở Hà Nội không?”
Tôi nói có.
“Đó là những ai”.
“Hồ Thanh [18], Nguyễn Hữu Ngô”.
“Họ là người thế nào?”
“Bạn cũ của tôi ở Huế”.
“Có phải bạn thân không?”
“Bạn thân”.
“Bây giờ họ đang làm gì?”
“Công tác tại Đài Giải phóng”.
“Anh có hay đến Đài Giải phóng không?”
“Có”.
“Tư tưởng của những người đó như thế nào?”
“Tôi không biết”.
“Bạn bè thân với nhau mà anh lại nói không biết”.
“Làm sao tôi biết hết họ được”.
“Thế anh thường trao đổi với họ về những điều mà anh đã viết trong nhật ký không? Cụ thể là thế này, có khi nào anh trao đổi với anh Ngô, anh Thanh và những người khác nữa những suy nghĩ của anh về miền Bắc, về chế độ xã hội chủ nghĩa, về Đảng, về chiến tranh vân vân... Và ý kiến của họ như thế nào? Họ có đồng ý với anh không?”
Tôi nói ngay:
“Chúng tôi lâu lâu mới gặp nhau và mỗi lần gặp nhau thường nói đủ thứ chuyện. Tất nhiên trong câu chuyện thường cũng hay nói đến những suy nghĩ của mình về miền Bắc, về chủ nghĩa xã hội, về Đảng... và việc đồng ý hoặc không đồng ý với nhau về một điểm nào đó là chuyện thường”.
“Thí dụ họ đã đồng ý với anh về những điều gì?”
“Làm sao tôi nhớ hết được”.
Vẻ bực tức và giận dữ của ông Lai lộ ra ngay trong cử chỉ và thái độ. Ông ta hứ một tiếng. Đến nước này tôi chẳng cần phải giữ ý tứ gì nữa. Mặc kệ, họ muốn làm gì tôi thì làm.
Buổi chiều ngày tôi nộp bản kiểm điểm, tôi lên lại căn phòng này. Lúc đó, ông Thanh vừa mới ngủ dậy. Ông bảo tôi rót nước pha chè uống. Ông lấy mấy tờ Nhân dân, Quân đội Nhân dân để giữa bàn, rồi bảo tôi ông đi có việc một lát sẽ trở về.
Tiếng mở khóa xe đạp nghe cách một cái, ông ta vác xe xuống thang gác. Giữa chừng thang gác phần lộ thiên một cô gái bước lên. Ông ta dừng lại nói gì với cô ta rồi đi xuống. Ông ta đạp xe về ngã Ba Đình. Tôi nghe tiếng dép nhựa lóc cóc trên thang gác, rồi lẹt xẹt ngoài hành lang. Cửa phòng vẫn mở. Cô gái ngó vào như tình cờ. Thỉnh thoảng cô lại đi ngang qua phòng tôi ngồi, khi cầm tờ báo, khi xách phích nước. Tôi cầm mấy tờ báo lật qua lật lại. Dãy nhà này không biết dùng để làm gì mà yên tĩnh thật. Thỉnh thoảng mới nghe tiếng người nói ở tầng trệt. Cũng không thấy xe cộ ra vào. Không thấy bóng trẻ con. Tôi hút thuốc, uống nước. Có lẽ ông Thanh này chưa bao giờ vào chiến trường. Ông ta tập kết ra Bắc rồi làm việc luôn từ đó đến nay. Chắc ông ta ở ban bảo vệ Đảng của Ban Thống nhất Trung ương. Còn căn phòng này, có lẽ ông ta mượn để làm việc với tôi. Ngoài ông ta ra, không bao giờ tôi thấy một người nào ở trong phòng này. Tôi nhìn lên bức tường trước mặt. Ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng khoác áo đưa tay chào, phía dưới là những ảnh màu chụp người, nhà cửa, xe cộ cắt từ báo ảnh Liên Xô. Anh Triều có nói người ta dám đưa tôi đi K3 lắm. K3 là trại cải tạo những phần tử xấu, phản động ở Quảng Bình. Tôi cũng chỉ nghe nói thế, nhưng không biết cái K3 này như thế nào? Hồi mới ra Hà Nội, tôi gặp thằng Ngô, thằng Tình, Út (Ý Nhi) đang đứng trước veranda [19] của Đài Giải phóng ở 58 Quán Sứ, tôi nói với thằng Ngô: “Rứa mà tụi hắn đồn mi bị đưa ra Bắc là để đi cải tạo ở K3 Quảng Bình”. Thằng Ngô đẩy cái kính cận thị sát mắt: “Thiệt hả mi? Tụi hắn đồn rứa hả mi?”, rồi hắn ngửa mặt lên trời cười ha ha rất sướng.
Một tiếng đồng hồ sau, ông mà tôi tạm gọi là Thanh này trở lại. Ông ta dắt xe lên thang gác, dựng xe vào lan can ngay trước cửa, khóa lại, cầm túi xách, đi thẳng vào sau phòng. Ông ta trở ra một tay cầm một cặp giấy, một tay xách cái bót da màu đen. Ông ta để cặp sau lưng ghế, rồi lật cặp giấy, rút bản kiểm điểm của tôi ra để lên bàn.
“Tôi đã đọc bản kiểm điểm của anh rồi. Anh đã viết theo dàn bài mà tôi gợi ý. Nhưng vẫn còn nhiều, rất nhiều chỗ cần phải viết lại. Tôi đã nói với anh nhiều lần, chúng tôi muốn cứu anh. Chúng tôi đã tạo điều kiện cho anh thấy rõ những sai lầm của mình để có phương hướng sửa chữa. Anh nên hiểu rằng đối với những trường hợp như anh thường người ta có ngay biện pháp xử lý. Và, chúng tôi chỉ cần thực hiện ý kiến của tập thể anh chị em ở K65 đối với anh là đủ. Nhưng chúng tôi không làm như thế. Chúng tôi tin con người anh có thể cải tạo được. Anh sẽ trở nên một người có ích mà cách mạng miền Nam đang cần”.
Ông ta đưa bản kiểm điểm cho tôi và nói tiếp:
“Anh viết còn thiếu nhiều lắm. Anh chưa thật sự thành khẩn và không cụ thể”.
Ông ta bảo tôi đọc bản kiểm điểm. Trong bản kiểm điểm của tôi, nhiều chỗ bên lề và phần giấy còn lại có những chữ ghi chú nhằm sửa sai tôi của ông ta.
Bản kiểm điểm của tôi có ba phần: A- Tóm tắt lý lịch; B- Phần kiểm điểm; C- Phương hướng sửa chữa. Tôi ghi lại dưới đây bản kiểm điểm của tôi (bản thảo) đã được ông Thanh này góp ý sửa chữa nhiều lần.
A- Tóm tắt lý lịch.
Họ và tên: Nguyễn Đính, tên riêng: Nhân.
Làm thơ lấy tên Trần Vàng Sao.
Sinh ngày.............. tại...............
B- Phần kiểm điểm.
Sau khi đã được các đồng chí ở Cục đón tiếp cán bộ B [20] và tập thể K65 góp ý kiến và phân tích, tôi đã nhận thấy rõ những sai phạm về ý thức, tư tưởng có tính phản động của mình, tôi tự kiểm điểm mình như sau:
Bằng nhật ký, những ghi chép khi đọc sách, thư từ và thơ văn, tôi đã biểu lộ những tư tưởng và suy nghĩ [21] chống Đảng, nói xấu các đồng chí lãnh đạo ở Trung ương, xúc phạm lãnh tụ, mạt sát các Đảng viên, xuyên tạc chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, nhận thức sai lầm về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước hiện nay; khinh miệt giới văn nghệ sĩ và tri thức miền Bắc.
1) Đối với chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc - Về chuyên chính vô sản.
Một thắc mắc đã có trong đầu óc tôi khi ở miền Bắc là những điều đã nói trong kinh điển về chuyên chính vô sản và sự thực thi chuyên chính vô sản ở miền Bắc là hoàn toàn trái nghịch nhau. Chuyên chính vô sản và sự lãnh đạo của Đảng không phải là một. Staline khi đấu tranh chống lại bọn cơ hội trong Đảng đã xác định rõ (về mặt lý thuyết) rằng: Nếu như Lénine có lần nói “chuyên chính của Đảng” là muốn nói Đảng không chia quyền lãnh đạo với một phe phái nào khác, vì chuyên chính vô sản là chuyên chính của giai cấp vô sản đối với các giai cấp phản động chống đối cách mạng. Còn nếu “Đảng chuyên chính” thì chuyên chính với ai, không lẽ lại chuyên chính với giai cấp đang nắm chính quyền là giai cấp vô sản. Staline đã xác định điều đó là sai lầm, không thể coi sự lãnh đạo của Đảng và chuyên chính vô sản là một (xin xem Staline toàn tập, tập 6) [22].
Khi ở miền Bắc, tôi có cảm nghĩ là miền Bắc đã vi phạm nguyên tắc kinh điển đó. Tôi cho là Đảng đã với tay quá dài ra khỏi quyền lãnh đạo của mình để xâm phạm vào quyền chuyên chính của giai cấp vô sản. Ở các Đảng bộ cơ sở, tôi cảm thấy hình như cách làm việc có tính quan liêu, mệnh lệnh của những đồng chí lãnh đạo đã thể hiện sự vi phạm nguyên tắc đó. Quyền hạn của chi bộ, Đảng bộ to quá, lấn áp cả quyền hành chính. Quần chúng muốn được tiếng là tiến bộ thì không dám phê bình thẳng Đảng viên, cấp ủy. Như thế, tôi kết luận, ở miền Bắc chỉ có chuyên chính của Đảng, chứ không phải là chuyên chính của giai cấp vô sản. Và chuyên chính của Đảng đó thực chất là chuyên chính của Trung ương. Giai cấp vô sản, rõ ra là chuyên chính của giai cấp này, không có thực quyền.
- Về kinh tế.
Tôi cho rằng miền Bắc khó có thể tái sản xuất mở rộng được. Khu vực sản xuất tư liệu sản xuất và khu vực sản xuất tư liệu tiêu dùng bị mất cân đối trầm trọng. Vừa tích lũy vốn dành cho khu vực trên, vừa phải dành cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, lại thêm đất nước có chiến tranh, đó là một vấn đề nan giải. Trong lúc đó, bất cứ một quan hệ nào giữa người dân với người dân cũng đều được gọi là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa [23]. Tôi nghĩ rằng muốn có một quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, trước hết phải có hai điều kiện cần và đủ là, một là lực lượng sản xuất xã hội chủ nghĩa, hai là khối lượng vật chất tiêu dùng của nhân dân phải có tính xã hội chủ nghĩa. Không có đủ hai điều kiện đó thì mọi quan hệ trong xã hội gọi là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đều là ảo tưởng. Miền Bắc chưa có hai điều kiện đó. Ăn mặc thiếu thốn, làm ăn bỏ công bỏ việc mà cứ nói quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Tôi cho như thế là chúng ta đã quá chú trọng về phía trước mà bỏ quên hiện tại chúng ta đang có nhiều thiếu thốn khó khăn. Và tôi nghĩ rằng tình trạng trộm cắp, gian thương, những cách làm ăn bê bối trong các cửa hàng mậu dịch, hợp tác xã buôn bán, ăn uống... do đó mà ra cả.
Tôi cho là nhân dân thì thiếu thốn, kẻ giàu người nghèo trong xã hội còn nhiều, người có nhiều thịt, kẻ không có thịt mà ăn như thế là không bình đẳng. Còn lâu nhân dân mới thấy chủ nghĩa xã hội thật sự.
 Về văn học nghệ thuật.
Tôi có thái độ bất kính đối với một số người làm công tác văn học nghệ thuật ở miền Bắc. Tôi cho họ có tài, nhưng không dám suy nghĩ độc lập, viết lách theo chỉ thị nghị quyết của Đảng; viết một điều gì sợ mất lập trường hoặc không đủ luận cứ để trình bày thì họ lại trích dẫn nghị quyết, lời của các đồng chí lãnh đạo. Như thế là họ nịnh lãnh đạo, làm việc miễn cưỡng, thiếu tự do. Họ có tiếng mà không có miếng. Tôi nghĩ rằng từ cân thịt, lạng đường họ được phân phối thì cái kiến thức của họ cũng căn cứ vào đó, lấy đó làm cơ sở, mà phân phối. Tôi thắc mắc vì sao trí thức miền Bắc được Đảng và Chính phủ đào tạo bao nhiêu năm nay lại không viết được một quyển sách nào về kinh tế, chính trị hoặc nghiên cứu về triết học khả dĩ có giá trị mà tất cả đều do các đồng chí ở Trung ương. Viết về Bác Hồ cũng chỉ có đồng chí Phạm Văn Đồng, đồng chí Tố Hữu... Cả cái kho tàng lý luận Marx - Lénine đồ sộ như thế mà các nhà nghiên cứu đã có cuốn sách nào cống hiến cho nền lý luận chủ nghĩa Marx-Lénine ở Việt Nam chưa, hay rồi cũng chỉ có Bác Hồ, các đồng chí ở Trung ương, như cuốn Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng... của đồng chí Lê Duẩn. Tôi mất tin tưởng ở một số người làm văn nghệ và trí thức ở miền Bắc là vì thế. Do đó mà tôi đã nói:
“Nếu không có tài đánh giặc thì miền Bắc chỉ là một vũng nước bùn lộn cứt”.
Một số cuốn sách và bài báo viết về văn học phản động ở bên Tây hay ở vùng địch tạm chiếm đã làm cho tôi ít tin tưởng ở sự hiểu biết của các tác giả về loại văn học này. Tôi cho họ chưa đủ sức để đối đầu với địch về phương diện này. Tôi nghĩ có chính nghĩa chưa đủ, cần phải có kiến thức. Về hạn chế sinh đẻ, tôi cho đó là tàn nhẫn. Tôi ghê tởm chuyện nạo thai. Hạn chế sinh đẻ, tôi nghĩ, chẳng qua là một cách giải quyết sự thiếu thốn, khó khăn về nhân khẩu.
Đó là những suy nghĩ và tư tưởng hết sức sai lầm và phản động của tôi. Những điều tôi hiểu trong sách vở chưa thấu đáo, sự liên hệ thực tế của tôi lại có tính cách xuyên tạc, hơn nữa lại hết sức mơ hồ và bản thân tôi không tìm ra một chứng cứ cụ thể. Tôi biết một mà chưa biết hai. Tôi chưa hiểu rõ về sự lãnh đạo của Đảng. “Đảng ta là một Đảng cầm quyền” [24].
Đối với xã hội miền Bắc, tôi không hiểu hết những đặc điểm của nó. Tôi chỉ thấy khó khăn mà không thấy thuận lợi. Thấy một vài hiện tượng ở bên ngoài xã hội tôi đã vội vàng kết luận đó là thực chất của xã hội. Do đó, trong ghi chép, nhật ký, thơ văn của tôi, tôi chỉ nêu lên những khó khăn, đau đớn, thiếu thốn trong xã hội, mà không nêu hết cái tốt, cái ưu việt của xã hội. Những sai lầm đó đã dẫn tôi đến sự mất tin tưởng, bất mãn với chế độ [25]. Từ đó, cái gì thật sự là tốt đẹp tôi cũng nói là xấu như vấn đề hạn chế sinh đẻ chẳng hạn.
Cái óc tiểu tư sản vẫn chưa được gột rửa hết những tư tưởng phản động tiêm nhiễm trong những năm tôi sống trong vùng địch còn sót lại, thêm vào, đó là tính tự cao tự đại của tôi, đã làm cho tôi có thái độ khinh miệt một số người làm văn nghệ và tri thức ở miền Bắc và khen bọn Trần Dần, Phùng Quán. Từ đó tôi có tư tưởng chống lại đường lối văn nghệ của Đảng. Tôi cho các đồng chí Phạm văn Đồng, Trường Chinh, Tố Hữu... không phải là những chân lý sống của nghệ thuật. Con người ta có hạn, nghệ thuật thì lâu dài, không thể căn cứ vào những lời nói của các đồng chí lãnh đạo để làm bằng cứ cho chân lý của nghệ thuật được.
2) Đối với sự lãnh đạo của Đảng Từ những suy nghĩ về chuyên chính vô sản và nền kinh tế của miền Bắc, tôi đã có thái độ không tin tưởng ở sự lãnh đạo của Đảng.
Tôi cho rằng tất cả những tệ nạn xã hội hiện nay Trung ương đều biết, nhưng Trung ương bất lực không giải quyết nổi. Tôi nghĩ rằng Trung ương Đảng chỉ có tài lãnh đạo đánh giặc chứ không có kinh nghiệm về xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là về kinh tế.
Tôi cho rằng trong cuộc cách mạng của ta, ta chủ trương xóa bỏ giai cấp, nhưng trong xã hội lại hình thành một giai cấp mới, đó là giai cấp lãnh đạo mà Trung ương là đứng đầu. Giai cấp lãnh đạo này có nhiều đường, nhiều thịt sống trên lưng trên cổ nhân dân, ra chỉ thị, nghị quyết cho những thằng ở dưới.
Từ chống đối, bất mãn đó có khi tôi đã nói xấu các đồng chí lãnh đạo. Tôi gọi Tố Hữu, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng là những tên và trong bài thơ Sân Khấu II tôi đã xúc phạm lãnh tụ [26].
Đối với các Đảng viên có lần tôi đã chê bai và mạt sát thậm tệ. Tôi đã dùng những lời lẽ hết sức vô lễ, hết sức bẩn thỉu như cái chổi quét nhà, ăn máu tanh đàn bà, cuồng tín để nói về họ. Tôi đã cho Đảng đã thành công trong việc biến những Đảng viên thành những đinh ốc, bù loong.
Suy nghĩ như thế, tôi căm tức, tôi cho Trung ương Đảng không biết hết những cực khổ, nhọc nhằn của nhân dân. Tôi muốn nhân dân phải biểu tình, viết báo chữ to tố cáo những kẻ ngồi trên sung sướng để nhân dân phải cực khổ, nói rõ những nguyện vọng của mình và nổ súng vào bọn đầu trâu mặt ngựa.
Những tư tưởng của tôi về sự lãnh đạo của Đảng hết sức phản động. Tôi đã tỏ thái độ căm tức hết sức điên cuồng, không lối thoát. Tôi đã quên mất rằng, chúng ta đang đánh Mỹ, bất cứ một hành động, một suy nghĩ nào có phương hại đến chế độ, đến uy tín của Đảng kẻ thù đều muốn lợi dụng.
Cuốn La nouvelle classe dirigeante của M. Djilas [27] (một tên xét lại phản động đã từng làm bộ trưởng ngoại giao Nam Tư) mà tôi đã biết hồi còn ở trong vùng địch đã làm cho tôi có suy nghĩ sai về Đảng là “một giai cấp lãnh đạo mới”. Sai lầm của một số Đảng viên đã làm cho tôi hiểu sai không đúng đắn về Đảng viên của Đảng. Những lúc suy nghĩ như thế tôi đã quên mất trong bất cứ một cuộc đấu tranh chống xâm lược hoặc trên một lĩnh vực nào, Đảng viên là những người đi trước hơn tất cả, là những người đã hy sinh nhiều hơn tất cả.
Tôi thắc mắc về những va chạm trong đường lối của các Đảng anh em trong phong trào cộng sản quốc tế. Mỗi Đảng đều có một sách lược riêng, một chiến lược riêng. Ai đúng? Ai sai? Nhưng chính tôi, tôi cũng rất hãnh diện về Đảng ta đã có một đường lối độc lập hoàn toàn, không phụ thuộc vào một Đảng nào khác. Chính nhiều khi tôi cũng đã nghĩ con đường từ Mạc Tư Khoa sang Bắc Kinh phải qua Hà Nội.
Thực tiễn của hai cuộc kháng chiến chống xâm lược và của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày nay phải làm cho tôi hiểu rõ điều đó. Nước ta là nước Việt Nam, Đảng ta là Đảng Lao động Việt Nam, người sáng lập và đứng đầu là Hồ chủ tịch, ta có đường lối của ta. Cái tinh túy của chủ nghĩa Marx - Lénine là ở trong cách mạng Việt Nam, được áp dụng một cách sống động và phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam.
3) Đối với sự nghiệp chống Mỹ cứu nước Tôi đã mất bình tĩnh trước sự kéo dài của chiến tranh. Tôi tin tưởng nhất định ta sẽ thắng, nhưng nhân dân ta sẽ chết rất nhiều. Tôi bị ám ảnh bởi sự chết chóc của chiến tranh gây ra. Cuộc đánh nhau ở Nam Lào đã dằn vặt ý thức tôi. Nam Lào, tôi nghĩ nơi thí điểm của chiến lược Việt Nam hóa của Nixon. Hắn gieo gió ở đó, và những người Việt Nam phải gặt bão, phải chết ở đó.
Tôi đã có những tư tưởng căm thù và ghê tởm chiến tranh như thế. Tôi đã lên án tất cả các cuộc chiến tranh, không phân biệt chiến tranh phi nghĩa và chính nghĩa. Và tôi đả đảo chiến tranh.
Với những ý nghĩ đó ngay trong bản thân tôi, tôi đã thủ tiêu sự đấu tranh rồi. Tôi đã quên mất rằng chính sự chết chóc, tàn phá, nô lệ, tù đày là do đế quốc gây ra. Muốn chấm dứt chết chóc và tàn phá thì phải đuổi bọn xâm lược Mỹ ra khỏi bờ cõi nước ta. Muốn thế thì phải cầm súng để ngăn chặn chiến tranh phi nghĩa. Thà hy sinh tất cả, nhất định không chịu làm nô lệ. Không gì quý hơn độc lập, tự do.
4) Về quan hệ Tôi đã trao đổi những thắc mắc, suy nghĩ của tôi để mong có sự đồng tình với một số bạn bè hoặc mới quen khi ra Bắc hoặc đã quen từ trước trong chiến trường. Và cũng đã có một số bạn bè như Nguyễn Hữu Ngô, Bùi Đức Mẫn đã có một vài điểm đồng tình với tôi. Nguyễn Hữu Ngô đồng ý với tôi về cái nhìn của tôi về chiến tranh và về sự bất lực của lãnh đạo trước một vài tình trạng xấu của xã hội. Mẫn đồng ý với tôi về nguyên nhân của sự bất bình đẳng trong xã hội.
Trong quan hệ với bạn bè như thế, tôi đã gây ảnh hưởng xấu cho họ. Tôi đã sai trái còn làm cho họ sai trái theo tôi.
C- Phương hướng sửa chữa
1. Bằng thực tiễn lao động để tự cải tạo mình [28]
2. Phải tìm hiểu những cái hay cái đẹp của xã hội ta để cải tạo nhận thức
3. Học hỏi ở các đồng chí chung quanh [29]
4. Đọc sách phải đúng đắn và nghiêm túc hơn nữa. Học tập chủ nghĩa Marx - Lénine để cải tạo tư tưởng mình.
Nói thật, tôi mệt mỏi và chán lắm rồi, tôi viết cho qua. Suốt ba bốn ngày, ông Thanh này xoay tôi từng chữ, từng câu, từng ý, gạch bỏ, thêm bớt, và làm cái việc gọi là gợi ý cho tôi thêm nhiều đoạn nữa.
Tôi viết lại bản kiểm điểm, thêm vào những điểm bổ sung, rồi nộp cho ông Thanh. Ông ta bảo tôi đọc cho ông ta nghe. Tôi đọc và không cần để ý đến thái độ của ông ta. Thỉnh thoảng ông ta ngắt tôi và góp ý thêm bớt. Ngay ở đoạn đầu phần kiểm điểm: “Từ ngày ra Bắc, bằng nhật ký, những ghi chép khi đọc sách, thư từ và thơ văn, tôi đã biểu lộ những tư tưởng và suy nghĩ chống Đảng...”, ông ta lắc đầu nói to:
“Tôi đã ghi chú ở ngoài lề là anh phải ghi thêm hai chữ “hành động” vào, “biểu lộ những tư tưởng, suy nghĩ và hành động” nữa chứ”.
Tôi nói liền:
“Tôi chỉ có tư tưởng, lập trường chống Đảng, chứ không có hành động chống Đảng”.
Tôi nhất định không làm theo ông ta.
Ông Thanh nói:
“Bản kiểm điểm của anh vẫn chưa đầy đủ. Những điều anh đã nói thì anh không nói hết, và còn nhiều vấn đề anh chưa nói. Sự thành khẩn của anh chỉ có mức độ. Chúng tôi chấp nhận ngang đó đã. Không phải anh kiểm điểm như thế là hết đâu. Đó mới chỉ là một bước. Và anh còn tiếp tục làm việc với chúng tôi”.
Có người đứng ngoài hành lang. Ông ta đứng dậy đi ra. Hai người to nhỏ một lúc. Ông kia nghiêng đầu nhìn tôi, rồi đi xuống cầu thang. Ông Thanh trở vào:
“Chiều nay anh tạm nghỉ cái đã. Tôi cũng thông cảm cho anh, kể ra anh cũng căng thẳng. Sáng mai tám giờ anh lại đến gặp tôi”.
Tôi nói:
“Bây giờ còn sớm, anh cho tôi đi ra mua ít tờ báo”.
“Được, anh cứ đi, nhưng không được gặp bất cứ một người nào và không được nói chuyện của anh cho họ biết. Kể từ nay, những ngày ở đây, anh đi đâu, làm gì, quan hệ với ai đều phải báo cho chúng tôi biết. Tốt hơn hết là anh không nên giao thiệp với bất cứ người nào ở Hà Nội. Chúng tôi luôn luôn theo dõi sát những hành động và việc làm của anh. Tôi nói thẳng cho biết. Bây giờ anh cứ đi”.
Tôi vừa bước ra khỏi phòng, ông ta nói theo:
“Anh nhận đầy đủ các tiêu chuẩn và sinh hoạt phí rồi chứ?”
Tôi nói rồi, rồi xuống cầu thang. Trời tạnh, nhưng còn lạnh.
Cái nhà khách mà tôi ở trong những ngày bị khảo tra thường chỉ có một mình tôi. Lâu lắm mới có một cán bộ miền Nam đến ngủ qua đêm. Chắc tôi là người đầu tiên và duy nhất ở đây lâu ngày. Một buổi chiều khoảng 3 giờ, lúc đó tôi đang ngồi đọc báo ở trên giường, một ông bước vào.
“Chào anh”.
Ông ta trạc năm mươi tuổi, người cao gầy, hơi đen. Ông ta mặc một bộ đồng phục, áo bốn túi màu vàng đất, đội mũ phớt Liên Xô màu xám. Ông ta là người trong đoàn khảo tra tôi ở K65 và cách đây mấy hôm ông cũng có mặt trong phòng của ông Thanh nọ. Sau tiếng chào, ông ta nói liền:
“Tôi đến gặp anh và nói chuyện cho vui, không phải đến làm việc với anh đâu, anh đừng ngại. Tôi biết anh ở Huế và biết nhiều về Huế nên tôi đến hỏi anh một vài chuyện”.
Ông ta tỏ vẻ thành thật. Nhưng đối với tôi lúc này tất cả những người thuộc loại này đều không tin. Ông ta nói ông là người Thừa Thiên, có bà con ở Huế. Chắc ông ta muốn biết tin tức người thân mà biết đâu tôi biết. Ông hỏi tôi về Huế, về cầu Trường Tiền, chợ Đông Ba, chợ Bến Ngự, chợ An Cựu..., về sinh hoạt ở Huế, về mức sống của người Huế. Ông nói:
“Tôi nói thật tôi tiếc cho anh lắm, anh Đính ạ. Những người như anh, có nhiều điều kiện tiến bộ, tiếc là anh lại vấp vào những chuyện như thế”.
Nói chuyện một hồi, ông ta đứng dậy nhìn cái phòng to dài chỉ có một mình tôi và một dãy giường trống không có chiếu. Ông nói:
“Ở đây, anh dễ tự tử lắm. Nhưng anh đừng có dại”.
Ông bước ra ngoài:
“Tôi đến nói chuyện với anh cho vui, chứ không có ý gì hết. Khi khác sẽ gặp lại anh”.
Ông ngập ngừng ở ngoài cửa dưới mái hiên:
“Kể ra ở đây một mình cũng buồn thật”.
Tôi ra 11A Hoàng Hoa Thám ăn cơm. Cơm ở đây khác với các K điều dưỡng cho cán bộ miền Nam là có độn mì sợi. Lúc này tôi ăn rất nhiều và rất ngon, nhiều khi không thấy no và có vẻ thèm ăn nữa. Tôi ăn cơm một mình như mọi người khác. Ai đến trước ăn trước. Người ăn không đông, độ trên mười người, trừ những ngày có khách, nhưng khách lại không đều, trưa năm, sáu người, chiều còn một hai, hoặc không có ai, hoặc đông hơn, bất chừng. Tôi là người khách duy nhất thường trực ở đây. Có khi tôi ngồi ăn chung bàn với người gác cổng. Sau bữa ăn, thỉnh thoảng ông mời tôi ra phòng trực cũng là nhà ở của ông, uống trà hút thuốc nói chuyện.
Tôi nói với ông:
“Nếu tôi ở đây thì vui biết mấy. Có khi thèm uống trà, ở trong đó cũng chịu”.
Khi có dịp uống nước với ông, thường bao giờ cũng vào buổi chiều, tôi ngồi ở đây cho đến sập tối. Tôi ngồi uống nước, còn ông ta thì lục đục làm một việc gì đó.
“Anh ở đây còn lâu không?” Ông hỏi tôi.
“Tôi cũng không biết nữa”.
“Gần Tết rồi. Anh có đi phép không?”
Tôi lắc đầu. Ông nói:
“Có mấy người quen ở quê ra nhắn tôi gặp nhau một bữa, nhưng chắc là sau Tết”.
Ông ta nói giọng Nam bộ hơi pha Bắc.
“Anh năm nay bao nhiêu tuổi?”
“Dạ, ba mươi”.
“Tết mà ở nhà khách thì buồn chết”.
Rồi tôi trở lại cái phòng mà người ta đã sắp xếp cho tôi ở trong một cái hẻm vắng. Một hai ba bốn năm sáu ngày hay mấy nữa tôi cũng không nhớ, một mình, không quen cũng không được, cứ ăn cơm xong tôi trở lại đó, một mình, không buồn không vui, không gì hết. Tôi cũng không nghĩ ngày mai người ta sẽ làm gì tôi nữa. Hình như những lúc này tôi không còn chán nản, mệt mỏi nữa. Tôi như một người bị liệt từ não bộ đến cơ bắp. Tôi lừ đừ, một mình, một cõi, ngày như đêm, đêm như ngày, không gặp ai, không thấy ai, không có ai nói chuyện. Chung quanh tôi, người lạ. Tôi như chết rồi. Chỉ còn một bóng dáng ám ảnh, dày vò tôi, đó là mẹ tôi. Và tôi thấy mình còn thở.
Nửa đêm thức giấc, tôi không nhớ mình đâu. Tôi tưởng tôi cứ như thường, tôi thấy mình bình yên. Tôi trở dậy, mở toang cửa ra ngồi ngoài thềm hút thuốc. Không biết mấy giờ rồi. Bây giờ mà có trăng, ánh sáng sẽ làm cho không khí bớt nặng và tôi có thể nhìn thấy mọi vật chung quanh, thấy mình bớt vắng lạnh. Nhiều đêm như thế này, tôi bật đèn, mở toang cửa ra, tôi có cảm tưởng cái ánh sáng thình lình ào ra ngoài đã làm cho đất đá và các vật ngổn ngang ngoài sân kia vụt thức dậy. Tôi đứng sửng trước cửa như trời trồng. Bây giờ tôi không còn ai nữa, ngoài đất đá và những thứ vô dụng người ta vất bỏ ngoài kia. Tôi cảm thấy chúng cần thiết và thân mật với tôi lúc này đây. Cái cảm giác trống không và không nhớ gì hết đã bắt đầu trong tôi từ đây, bây giờ. Rồi đây sẽ có những lúc tôi lang thang giữa phố, trên các đường làng, ngoài đồng, giữa chợ ở những nơi xa lạ, một mình, đầu óc trống không, không nhớ gì hết. Chỉ có cơn đau dạ dày làm tôi đặt tay lên bụng và biết rằng mình còn sống như thế này và chung quanh có người.
Tám giờ sáng hôm sau tôi lên phòng ông Thanh. Tôi ngồi vào cái ghế ở vị trí hàng ngày tôi ngồi. 10, 15 phút, hai ba ông đến, trong đó có ông Lai. Bước vào phòng họ kéo ghế ngồi liền. Ông Thanh rót nước. Họ nói qua nói lại với nhau những chuyện gì đó, coi như không có tôi. Tôi thì tôi cứ hút thuốc, uống nước. Trà ở đây bao giờ cũng ngon, không Thanh Tâm thì cũng Thanh Hương, Hồng Đào.
“Thôi, chúng ta làm việc, anh Lai nhá!”
Ông Thanh nói.
Ông Lai xoa hai tay vào nhau:
“Trời vẫn còn lạnh, khó chịu thật”.
Vừa nói ông ta vừa kéo dịch cái ghế ra. Mấy ông kia, ông nào cũng mở cặp, túi xách lấy sổ sách để trước mặt. Mặt mày họ lạnh tanh. Và bây giờ họ mới nhìn tôi, tất cả đều bằng những cặp mắt chằm hăm; có cặp mắt cúi xuống, ngó trợn qua phía trên gọng kính; có cặp như lim dim theo cái đầu gật lên gật xuống; có cặp mở to ngó thẳng vào hai mắt tôi; trong lúc đó hai cái dùi dưới bàn rung rung... Tôi chẳng chờ đợi cái gì cả. Tất cả mọi sự rồi cũng chẳng tốt lành gì cho tôi hết. Tôi sẽ bị cải tạo lao động ở K3, bị giam ở Hỏa Lò...
Ông Lai nói trước:
“Chúng tôi đã đọc bản kiểm điểm của anh”.
Ông ta cầm chéo mấy tờ giấy kiểm điểm của tôi, ấn mạnh ngón tay cái ở một góc, dứ dứ trước mặt tôi, nói tiếp:
“Chúng tôi nói thẳng cho anh biết là chúng tôi vẫn chưa tin những điều anh nói ra đây đều là thành thật, nhất là những điều mà anh nhận là mình sai lầm. Những tư tưởng phản động chống Đảng của anh có hệ thống và không phải mới có đây, mà đã có từ lâu rồi; tôi chưa cần nói nguồn gốc. Chúng đã thấm sâu trong óc não máu thịt của anh, và có thể coi như đó là máu thịt của anh, cũng được. Cái nhìn của anh về miền Bắc, về chế độ xã hội chủ nghĩa, về Đảng... đâu phải giản đơn là cái nhìn của một người lạc hậu, không có trình độ nhận thức, cũng không hẳn là vì bất mãn mà xuyên tạc, nói xấu. Đó là một cách nhìn có hệ thống, có quan điểm lập trường hẳn hoi; nói rõ ra đó là quan điểm, lập trường của giai cấp tư sản, mà đã là tư sản tức là phản động, chống cộng, chống cách mạng, chống nhân dân, chống Đảng. Thế thì... không lý mới có mấy ngày mà anh lại từ bỏ những quan điểm, lập trường đó một cách dễ dàng và thú nhận chúng sai lầm và phản động. Ở đây, chúng tôi không dọa nạt, không ép buộc anh một điều gì cả. Anh cũng không bị tra tấn hoặc hành hung. Nhưng tôi biết anh sợ, anh sợ (những người chung quanh nhìn nhau gật đầu) và anh thú nhận, dù đó là cực chẳng đã. Bởi vì những điều anh thú nhận là ngược với cái lý tưởng phản động mà anh tôn thờ. Anh đã nói ra được một phần tư tưởng và suy nghĩ phản động, sai lầm của mình, nhưng anh chưa nói hết và cũng còn thiếu thành thật. Ngay từ đầu chúng tôi muốn tự anh nói ra những việc mà từ ngày ra Bắc đến nay anh đã làm. Anh đã hoạt động như thế nào, có bao nhiêu cơ sở, gồm những ai? Và... ai, ai đã giao cho anh nhiệm vụ này. Nói rõ ra CIA hay bọn ngụy Sài Gòn? Không phải chúng tôi không biết nhưng chúng tôi muốn cứu anh, muốn cứu những con người như anh. Chúng tôi muốn anh được hưởng lượng khoan hồng của Đảng.
Nhưng anh vẫn không nói, anh giấu. Vô ích, điều đó chỉ làm cho anh lún sâu vào vũng bùn nhơ của tội lỗi. Đảng rất độ lượng và sẵn sàng khoan hồng, nhưng chỉ với những người biết ăn năng và hối cải, và, và... cũng phải trải qua một quá trình giáo dục và cải tạo.
Vậy động cơ tham gia cách mạng của anh là gì? Anh không thể che mắt được quần chúng. Tập thể K65 đã cho anh một bài học. Họ căm phẫn, nhưng rất sáng suốt. Anh đã chui vào tổ chức của cách mạng để phá hoại”.
Mấy tiếng sau ông ta nói đều đều một giọng, dằn từng tiếng một, rồi ngừng, xoay người đổi thế ngồi, vắt một tay lên thành ghế:
“Anh phải nói rõ ra ở đây những hoạt động của anh từ ngày ra Bắc”.
Tôi không tỏ vẻ gì là bực tức, cứ cái giọng điệu đó cứ rề rà kéo dài mãi tôi đã chán. Tôi hút một hơi thuốc trả lời:
“Tôi bị thương và đau dạ dày. Tôi được cho ra Bắc chữa bệnh, rồi vào lại chiến trường”.
Ông giật cái tay để trên thành ghế, chồm người ra phía trước:
“Chúng tôi còn nhiều việc phải làm, không thể mất thì giờ với anh như thế này được nữa”.
Im lặng một lúc. Một ông nói:
“Anh Đính ạ, chúng tôi đã đối xử với anh rất tử tế. Cho đến lúc này, anh cũng vẫn là một cán bộ B. Anh vẫn được hưởng đầy đủ tất cả mọi chế độ, tiêu chuẩn của cán bộ B. Anh là người miền Nam. Chúng tôi đây cũng là người miền Nam. Chúng tôi có thể dễ hiểu anh hơn và trong một mức độ nào đó cũng có thể nói là có thể thông cảm với anh. Chúng tôi muốn trường hợp của anh được giải quyết trong nội bộ của chúng ta”.
Ông này nhìn tôi, rồi tiếp:
“Nhưng anh vẫn không biết điều”.
Một ông khác:
“Tội của anh là tội ở tù. Nhưng chúng tôi vẫn chưa đưa anh ra pháp luật là vì thế”.
Tôi nói:
“Tôi đã nói hết với các anh rồi. Tôi không còn gì để nói nữa. Những tư tưởng và suy nghĩ của tôi đã được tôi ghi lại, còn đó, tôi có giấu gì đâu. Có thể có nhiều điều tôi không viết ra trong bản kiểm điểm, bởi vì tôi không thể nhớ hết được”.
Ông Lai nói:
“Tôi muốn biết điều mà anh không viết ra”.
“Có nhiều điều tôi nghĩ tôi đã ghi lại. Nhưng làm sao tôi ghi lại hết những suy nghĩ của mình. Các anh nói thế tôi cũng chịu”.
Ông Lai dằn giọng:
“Anh thừa biết là chúng tôi muốn anh nói ra cho chúng tôi biết những gì?”
À, những người này muốn tôi nói thế này: tôi là CIA mà mạng lưới hoạt động của tôi ở miền Bắc là thế này này. Mà thôi, mệt quá, nói qua nói lại với những người này càng thêm căng đầu căng óc. Hơn nữa tôi cũng chẳng biết nói gì với họ nữa. Suốt những buổi như thế này họ nói nhiều hơn tôi. Tôi ngồi đó, nhiều khi lơ đãng nhìn lên mấy tấm hình cắt trong báo ảnh Liên Xô dán trên tường, chấm ngón tay vào những giọt nước đổ trên bàn vẻ những vòn tròn, những mặt người mặt thú. Cuộc hỏi cung cứ rề rà kiểu này làm tôi chán và mệt. Tôi không muốn nói gì nữa. Tôi cũng chẳng lo lắng gì nữa. Họ bắt tôi nhận những điều mà tôi không có. Tôi thư thả và không cảm thấy căng thẳng.
“Thôi tùy anh. Đã thế anh đừng có trách chúng tôi sau này. Ông Lai nói. Anh sẽ còn gặp chúng tôi. Bây giờ trước mắt anh ở tạm tại nhà khách của Cục một thời gian cái đã, chưa biết lâu hay mau, chờ trên quyết định. Có gì anh cứ gặp anh Thanh đây. Nếu anh Thanh đi vắng, anh gặp các anh ở Cục. Anh có thể ra phố, nhưng tuyệt đối không được gặp một người nào cả, không được nói với bất cứ với ai về chuyện của anh. Chắc anh phải ăn Tết ở đây rồi đó. Kể cũng buồn thật”.
Họ còn xúm nhau nói với tôi nhiều điều, nhiều chuyện nữa. Tất nhiên họ chưa buông tha giả dớm tôi đâu. Cái tình trạng này vẫn còn kéo dài mãi, mỗi lúc mỗi khác, mỗi hoàn cảnh mỗi khác vẫn còn cho đến lúc tôi viết những dòng này. Khi thì trực tiếp chạm mặt bằng thường mục hoặc bằng áo mũ công an; khi thì cho người lẩn vào trong các cuộc gặp gỡ nói chuyện giữa bạn bè; khi thì đi ngang qua đường giả đò ngó vào nhà, hay đứng bên gốc ổi, gốc khế nhà bên cạnh ngó trời ngó đất chổng tai, liếc mắt đủ cách, đủ kiểu...
Tôi lại về nằm dài trong cái phòng to rộng một mình, gối tay lên đầu ngó mái nhà. Đọc sách cũng ít thích thú, hết ra sân nhìn trời nhìn đất, lại vào ngồi lên bực cửa. Rồi không có việc gì làm, một mình, tôi để ý hết tất cả các vật chung quanh: cái cán xen gãy một nửa, mấy tấm sắt làm trạc dắt đất vất bừa bãi ở một góc, những vôi vữa còn lại nước mưa chảy xoi thành núi sông ao hồ, những đống gạch vỡ, đường nước giọt dưới mái hiên... Nhiều khi tôi loanh quanh luẩn quẩn giữa những đống vật này, đẩy cái cán xẻng gãy lún sâu vào đống vữa, dũi chân vào đống cát, ném một viên gạch xuống hồ để nghe tiếng bọt nước sủi tăm...
Lạ thật, suốt thời gian ở đây tôi không nghe tiếng chó sủa, không thấy một con gà con vịt. Bây giờ mà có một con vật gì động đậy chạy qua đây chắc là vui lắm.
Còn người?
Người đi ngoài đường kia, tôi không quen, không biết. Họ thấy tôi cũng như tôi thấy họ, như mọi vật trước mắt có trong con mắt thì thấy. Người bước vào phòng này thì bao giờ họ cũng nhìn tôi không như nhìn một con người. Mắt, miệng họ bao giờ cũng xiên lệch.
Đêm như ngày, ngày như đêm, ở trong tối hay ra ngoài sáng, tôi chỉ có mình tôi, không có ai thân thiện, bạn bè. Rồi cũng như sau này, cả ngày thường khi không nói chuyện với ai, cứ như câm như điếc. Vây chung quanh là những bộ mặt nặng nề, khinh khỉnh.
Tết đến rồi. Ở các phòng làm việc của Cục đón tiếp cán bộ B người vô ra nhiều hơn. Họ đi từ phòng này sang phòng khác, kẻ chạy, người bước mau, vội vàng hấp tấp. Họ lo Tết. Họ chia hàng, nhận tiêu chuẩn. Mặt người nào người nấy cũng vui, cũng cười. Những bàn làm việc có ghế, có giấy tờ sổ sách, có cả thuốc lá, mứt kẹo, trà đường và thịt, nhưng không có người ngồi. Tôi ra phòng khám bệnh xin một ít thuốc dạ dày. Cửa phòng khám bệnh đóng một cánh. Cô y sĩ đang ở căng-tin, bận giúp những người khác phân phối hàng. Một người đang lúi húi nhận thịt nói với tôi:
“Anh vào nhận tiêu chuẩn đi”. Ông nói vói vào trong phòng:
“Anh Đính ở K65, cho anh nhận tiêu chuẩn Tết”.
Những ngày tết những người thường ăn cơm ở đây đều đi phép. Các cô phục vụ nhà ăn là người Hà Nội nên ai cũng về nhà. Tôi chưa biết ăn ở đâu. Khoảng 29 Tết, ông Thanh bảo tôi:
“Những ngày Tết anh vẫn ăn cơm ở Cục. May có mấy ông không đi phép...”
Ông nói tiếp:
“Anh nhớ là không được tiếp xúc với ai hết. Ra Tết các anh trên sẽ có hướng giải quyết cho anh. Anh đi đâu phải báo cáo cho đồng chí trực ở Cục biết”.
Rồi ông hỏi tôi một câu hỏi mà ông ta đã hỏi tôi nhiều lần:
“Anh có bà con ở Hà Nội không?”
“Không”.
“Anh nhận tiêu chuẩn Tết rồi chứ?”
Tôi gật đầu nói rồi.
Tôi cũng chẳng còn bụng dạ nào để nghĩ đến Tết với nhứt nữa. Đây là một cái Tết chán ngắt, mệt mỏi và buồn thảm nhất trong đời tôi. Hai mươi bảy, hai mươi tám Tết rồi. Trưa, chiều ra ngoài 11A ăn cơm. Tôi nằm dài, mưa lạnh, tối câm.
Những ngày Tết trong phòng ăn chỉ có một mình tôi. Những bữa ăn tẻ ngắt và lạnh. Ông gác cổng và một vài người khác đem cơm về ăn ở phòng riêng, cô phục vụ hỏi tôi:
“Tết chắc anh nhớ nhà lắm?”
Tôi cười.
“Anh không có bà còn bạn bè ở Hà Nội à?”
“Không chị ạ”.
Chiều ba mươi, tôi mang gói chè Hồng Đào ra phòng trực uống nước với ông gác cổng. Tôi nói:
“Tôi thấy Hồng Đào dễ uống hơn Thanh Hương”. Tôi định mở gói chè, ông xua tay:
“Hồng Đào, Thanh Hương hay Thanh Tâm gì thì cũng một vị, thế thôi, thua Thái Nguyên hết. Tôi có chè Thái Nguyên đây”.
Chúng tôi uống trà. Ông ta nói:
“Anh thấy không, thua Thái Nguyên hết. Chè này là của một người bạn tôi tự sao lấy và gửi cho tôi đấy. Hồi anh lấy ít ấm về uống cho vui”.
“Tôi không có ấm chén và nước sôi. Thôi, để tôi ra đây uống với Bác cũng được”.
Đêm giao thừa, tôi nằm hút thuốc, trăn qua trở lại. Tôi không nhớ là đêm đó tôi có nghe tiếng pháo hay không nữa.
Suốt mấy ngày Tết, tôi không thấy một đứa trẻ con.
Khoảng chiều này mồng 5 mồng 6 hay mồng 7, mồng 8 gì đó, ông Thanh đến gặp tôi ở nhà khách.
“Anh chuẩn bị sáng mai đi. Sáng mai, bảy giờ, anh mang đồ đạc ra ngoài văn phòng và lấy giấy tờ”.
Tôi cũng chẳng hỏi đi đâu nữa.
Sáng mai, tôi xách va li và đồ đạc ra ngoài Cục. Ông Thanh đưa giấy tờ cho tôi và bảo:
“Tạm thời, chúng tôi đưa anh trở lại K65. Anh đến đó phải luôn luôn tỏ ra là một kẻ biết phục thiện, biết ăn năn hối cải. Thời gian ở K65 là thời gian thử thách cho anh đó. Anh chị em K65 đều biết rõ về anh, nên đó là một môi trường cải tạo tốt đối với anh. Còn sau này anh sẽ ra sao, điều đó hoàn toàn do anh và ý kiến của tập thể K65. Còn những việc khác, các anh ở K65 sẽ hướng dẫn. Chúng tôi sẽ gặp anh sau”.
Tôi bị bắt
- III -
Tôi trở lại K65 tức là trở lại cái thế giới ở đó tôi không được coi là con người. Gần giờ ăn trưa, tôi đến K65. Tôi để đồ đạc bên đường. Tôi cảm ơn anh tài xế. Anh ta cười và hút với tôi một điều thuốc, rồi đưa xe vào sân khu nhà A. Tôi cứ đứng bên đường, chưa biết mình đi đâu bây giờ. Người ta đã thấy tôi. Người trong các phòng nháo nhác ngó ra đường. Những cửa sổ trên lầu nhà A, dọc hành lang lầu nhà B đầu người, thân người ló ra, hai bên hai phía, tôi ở giữa. Nhiều người đã ra đứng ngoài hành lang, ngoài sân, nghiêng vai, ghé vào tai nhau. Sau này cô Mộng, một người bạn tuổi suýt soát với tôi, kể cho tôi biết: lúc anh mới lên, người ta xì xầm rất dữ, có người nhăn mặt, có người nhổ nước miếng:
“Thằng Đính!”
Sao lại đưa hắn về đây?”
“Tưởng đã đưa hắn đi cải tạo rồi chứ”.
“Hắn!”
Ông Hà, người Quảng Ngãi khoảng trên 60 tuổi và ông Bí thư chi bộ dãy nhà B1, cũng người Quảng Ngãi, tôi không nhớ tên, ra gặp tôi. Ông Hà nói:
“Anh về lại tổ 3 ở phòng cũ”.
Hai ông đi trước tôi theo sau. Tôi để bao sách vở và một vài thứ lặt vặt trước cửa phòng trực, rồi xách va li đi vào. Ông Hà chỉ cho cái giường sát ngay cửa ra vào:
“Anh nằm đây!”
Ông Hà quay sang ông Bí thư chi bộ:
“Thôi đi ăn cơm đã”.
Rồi ông nói với tôi:
“Ăn cơm xong chúng tôi sẽ làm việc với anh”.
Mọi người trong phòng cầm đũa chén đi ăn cơm. Họ coi như không có tôi. Ông già Tuyến ở phòng trong ra sau cùng. Ông nói với tôi:
“Đi ăn cơm mầy... mầy thiệt...”
Tôi đã được cho biết là cơm trưa của tôi đã báo rồi.
Nhà ăn ồn ào. Tôi bước vào. Tiếng nói, tiếng cười bớt dần rồi im hẳn, chỉ còn tiếng bát đũa va nhau và tiếng chân ghế sắt kéo trên nền xi măng. Mọi người đều nhìn tôi. Người đứng dậy, người ngểnh cổ, người chỉ liếc qua rồi cứ cúi đầu ăn. Tôi ngó quanh, rồi tìm một bàn chưa có người, kéo ghế ngồi đợi. Mấy bà, mấy cô phục vụ đứng ở cuối nhà bếp chỉ chỏ tôi nói thì thầm. Tôi loáng thoáng nghe một vài tiếng nói nhỏ chung quanh. Những người đến sau tìm một bàn trống khác ngồi đợi. Tiếng ồn chung quanh bắt đầu, nhưng không xáo động như thường ngày. Một người cầm bát đũa đến bàn tôi, ông Bí thư chi bộ khu B. Một người nữa đến, ông Bí thư Đảng ủy. Còn thiếu một người nữa.
“A, anh Phước, lại đây”.
Ông Phước, người Bình Định, đau gan, đang đứng giữa phòng. Ông Bí thư Đảng ủy vẫy tay:
“Lại đây, lại đây anh Phước”.
Tôi ăn rất ngon. Suốt bữa ăn các ông đó có nói chuyện qua lại. Tôi ngồi lại sau cùng. Ăn xong tôi đi rửa chén đũa. Một người đang rửa ở vòi nước thấy tôi bước đến, bỏ qua vòi khác ngay. Mặc kệ, tôi cúi xuống rửa. Đến thùng nước uống, cô Mộng đang hứng nước vào bát. Cô vừa rút bát ra, tôi đưa bát vào. Đợi bát tôi đầy nước cô Mộng tắt rô bi nê. Một vài người thấy tôi đứng uống nước, lảng ra đi chỗ khác hoặc sang thùng nước bên cạnh. Chị Hoài, người cùng quê Quảng Điền với tôi, đến lấy nước uống. Chị vừa hứng nước, vừa nhìn tôi cười. Rồi chị và cô Mộng cứ đứng bên thùng nước cho đến khi tôi uống xong mới về.
Bắt đầu từ đây, ở cái K65 này, tôi sống những ngày kinh khủng nhất trong đời mình. Không ai ăn thịt ăn cá chi tôi hết, nhưng quá dễ sợ.
Tôi vừa bước vào phòng, ông Hà vào bảo tôi:
“Anh sang phòng Đảng ủy làm việc”.
Nói xong ông ta bỏ đi ngay. Tôi cất bát đũa, đốt một điếu thuốc rồi đi. Vòng trong hành lang, tôi gặp thằng Nguyễn Viết Trác vừa mới đi ăn cơm về. Hắn nhăn mặt, khấp khểnh bước, giả đò lên cơn suyễn, nhìn tôi, rồi cúi đầu lê chân bước vào phòng [30]. Hình như khi nhìn tôi hắn có lắc lắc cái đầu thì phải. Tôi sang nhà A, và phòng ông Bí thư Đảng ủy khối bệnh nhân [31]. Bên cái bàn đá mài kê sát cửa sổ ngó ra ngoài sân ba bốn ông đủ bộ sậu trong ban lãnh đạo Đảng và hội đồng bệnh nhân đã ngồi sẵn đó. Họ đang uống trà và cười nói. Còn một cái ghế, ông Hà kéo ngồi. Tôi không có chỗ, tôi ngồi lên giường. Trời tạnh, giữa trưa có hơi nắng, nhưng còn lạnh. Một ông trong họ đứng dậy chế nước vào ấm. Hình như cử chỉ đó thường là để chuẩn bị và ổn định đầu óc của những người chủ trì một buổi họp. Ông Hà, Chủ tịch Hội đồng bệnh nhân nói:
“Báo cáo các đồng chí, anh Đính đã đến”.
Quay sang tôi ông tiếp:
“Hôm nay chúng tôi mời anh đến đây để Đảng ủy và hội đồng bệnh nhân làm việc”.
Rồi ông giới thiệu từng người một, mặc dầu ông ta biết là tôi đã biết và quen mặt những người này từ lâu. Chỉ có ông Phước đau gan người Bình Định, làm Bí thư chi bộ khu B1 thay ông Bí thư người Quảng Ngãi sắp chuyển đi nơi khác.
Ông Bí thư Đảng ủy, người Quảng Nam, khoảng trên 40 tuổi, mặt tròn, trắng, nói:
“Ban Thống nhất Trung ương và Cục đón tiếp cán bộ B tạm thời đưa anh về đây và giao nhiệm vụ cho chúng tôi giáo dục và theo dõi anh. Đối với anh lúc này, ý kiến của tập thể K65 là hết sức quan trọng. Anh được hưởng mọi tiêu chuẩn như mọi người, nhưng ngoài nội quy và y lệnh anh còn phải thực hành những điều sau đây”.
Ông ta nhìn vào cuốn sổ và nói tiếp:
“Anh nên nhớ là giờ đây anh không phải như anh trước kia nữa. Anh phải nhớ những điều này. Ngoài việc đi ăn cơm, vệ sinh cá nhân trong phạm vi của K65 ra, đi đâu anh phải báo cáo với anh Hà, hoặc với tổ trưởng. Anh không được ra ngoài thị xã mà không xin phép. Ngay ở trong K có tổ chức chiếu bóng vào ban đêm, anh phải xin phép các anh đó mới được đi. Anh không được nói chuyện với bất cứ một người nào, kể cả cán bộ bệnh nhân hoặc với những người ở cùng phòng. Nói rõ ra là anh không được gợi ý gặp hay nói chuyện với bất cứ một người nào. Những người khác thì có quyền nói với anh, mà nếu có hỏi, có nói với anh thì anh mới trả lời, còn không thì thôi. Anh phải tỏ ra có lễ độ với mọi người. Không phải như trước đâu, nói gì anh cũng phải thưa dạ”.
Ông ta hớp một hớp nước rồi tiếp:
“Anh không được tham dự bất cứ một cuộc họp hoặc sinh hoạt nào trong K. Nếu có một cuộc họp nào đó mà anh được cho phép dự, như sinh hoạt tổ chẳng hạn, anh chỉ được ngồi nghe, và cấm không được phát biểu”.
Ông ta dừng lại hút thuốc. Ông Phó bí thư Đảng ủy, Chủ tịch hội đồng bệnh nhân nói:
“Tuyệt đối, tôi nhắc lại, tuyệt đối anh không được góp ý, phê bình bất cứ ai ở K65 này về bất cứ một việc gì”.
Ông Bí thư Đảng ủy tiếp:
“Anh phải nhớ kỹ điều đó”.
Ông ta nhìn tôi, rồi nói giọng to hơn.
“Tuyệt đối anh không được nhờ bất cứ ai trong anh chị em cán bộ ở K65 làm một việc gì. Không được, tuyệt đối không được. Còn nếu ai trong anh chị em nhờ anh làm một việc gì, anh phải báo cáo cho chúng tôi biết; chúng tôi có đồng ý anh mới được làm. Còn điều này nữa, tuyệt đối anh không được gặp gỡ bất cứ một người nào, dù là bạn bè hay bà con ở nơi khác đến. Anh nghe chưa?”
Một người khác góp ý:
“Anh ăn nói với mọi người phải từ tốn, lễ phép. Tốt hơn hết, có ai nói với anh anh mới được nói”.
Ông Chủ tịch hội đồng bệnh nhân nói:
“Anh Đính ạ, anh là một người có trọng tội. Anh phải biết ăn năn hối cải. Những ngày anh ở đây là bước đầu chúng tôi đánh giá con người anh. Và việc đánh giá của chúng tôi sẽ có quan hệ đến tương lai của anh sau này. Và sau này, anh sẽ ra sao, đi đâu, làm gì là do các anh ở trên quyết định. Tạm thời trước mắt anh ở đây đã. Thế thôi các đồng chí nha”.
Ông Bí thư Đảng ủy nói:
“Anh có ý kiến gì không?”
“Không”.
“Thế thôi các đồng chí. Thôi anh về đi”.
Tôi ở căn phòng cũ, trước ở phòng trong, nay ở phòng ngoài. Dãy nhà B này có hình chữ U, phòng tôi ở tầng trệt sát phòng đấu góc khay. Giường của tôi kê ngay cửa ra vào thông với cửa hành lang ngó sang dãy nhà trệt bốn năm phòng cách một khoảng sân rộng. Một cái bàn xi măng đá rửa màu xám kê sẵn sát giường. Cái bàn này bây giờ với tôi chỉ để vali, tách chén, bát đũa. Lúc này tôi còn đọc, viết gì được nữa. Nhưng tôi mà đụng vào giấy bút, sách vở thì chỉ gây thêm cực khổ cho tôi. Người chung quanh thường dòm ngó tôi, từng cử chỉ, từng lời nói, từng bước đi. Đó không phải là nỗi khổ tâm của tôi mà là một sự kinh khủng của tôi: Không viết được, không đọc được. Dần dà về sau, tôi sang phòng đọc sách báo của K ngồi đọc, rồi mượn báo về phòng, lúc này tôi chỉ mượn báo mà không mượn sách. Ngồi ở phòng đọc sách tôi thấy mình thư thả, không bị ai dòm ngó. Nằm trong phòng người qua kẻ lại với những bộ mặt khinh khỉnh liếc trừng, tôi quá mệt. Tất cả báo chí tôi mượn về đều để trần ra giữa bàn, trên giường. Và người ta cũng biết đó đều là sách báo của Đảng và tôi mượn của K. Nhưng thường xuyên họ vẫn lò mò kiểm tra. Tôi chỉ đọc mà không ghi chép. Tôi tránh việc cầm cây bút trên tay và trước mặt là một quyển vở hay một xấp giấy trắng. Suốt thời gian này tôi không bao giờ khóa va li.
Không khí ở K65 quá căng thẳng với tôi. Tôi không đi chơi đâu được, không nói chuyện với ai. Căn phòng tôi ở cũng vẫn là những người cũ hình như có một hai người mới đến. Tất cả đều là Đảng viên. Trong số này có một anh chàng người Quảng Ngãi trên 40 tuổi, luôn luôn ăn diện, áo quần khi nào cũng thẳng nếp và đắt tiền [32]. Anh ta đang có ý định lấy vợ và ở luôn miền Bắc. Trước anh ta rất vui vẻ với tôi, nhưng bây giờ anh ta căm ghét tôi ra mặt, thậm chí anh ta còn nhổ nước bọt trước mặt tôi.
Không khi nào tôi đang đi mà có ai gọi tôi cả. Tôi có đó cũng như không. Người ta gọi tôi là “tên Đính”, “thằng Đính”. “Ê Đính, lại đây nói cái này”. Cũng có người gọi tôi bằng anh, nhưng lúc đó chỉ có tôi và người đó. Và người đó trước khi nói với tôi một điều gì đều ngó trước ngó sau, và bao giờ cũng chỉ một câu ngắn, đôi ba tiếng, rồi bỏ đi ngay, để nếu có ai thấy cũng chỉ xem như tình cờ người này đi ngang qua mặt tôi [33].
Tôi vẫn giữ cách sinh hoạt bình thường hàng ngày của tôi. Buổi sáng, buổi trưa xách phích xuống nhà bếp lấy nước... Cũng may đó là những việc hằng ngày trước kia của tôi, không thì bây giờ người ta sẽ bảo tôi là cố phấn đấu để chuộc tội. Có điều là tôi không thức khuya được. Trước kia, tôi có sắm một cây đèn dầu hỏa. Sau chín mười giờ khi mọi người tắt điện đi ngủ, tôi thắp đèn dầu thức, đọc sách và viết.
Ở gác trên có một anh thanh niên người Quảng Ngãi lớn hơn tôi một hai tuổi, kỹ sư nông nghiệp thì phải, bị bệnh thần kinh. Anh ta hát rất hay, và thường ngồi trước hành lang đánh đàn hát to một mình. Một hôm đến giờ ăn cơm, tôi gặp anh ta cầm đũa bát từ trên gác đi xuống. Anh ta nói, vừa nói vừa cười hi hi:
“Sớm quá, sớm quá, ông anh ơi! Ông làm sớm quá!”
Anh ta cười hi hi. Anh ta không dự cuộc đấu tố tôi tại hội trường K65. Tôi chắc là anh ta không bị phê bình, dù anh ta là Đảng viên, vì người ta cho là anh ta bị thần kinh.
Lúc này tôi cũng chỉ có một mình. Tôi quanh quẩn với cái bóng của tôi, khi tôi theo nó, khi nó theo tôi; ban đêm trên vách, ban ngày trên đường. Ở đây không ai đối xử với tôi như một con người. Thà tôi bị đưa đi cải tạo lao động hoặc ở tù còn hơn. Dẫu sao ở đó những người chung quanh cùng một hoàn cảnh, dù có ganh ghét nhau, đâm chém nhau cũng còn xem nhau là con người. Còn ở đây, người ta đối xử với tôi một cách tệ hại. Người ta kinh tởm tôi, khinh bỉ tôi. Tôi như một tên hủi, một con chó ghẻ dại hôi hám mà hàng ngày người ta buộc phải chung đụng không thể tránh được. Vào một lối hẹp, hay ở một chỗ đông người, tất cả đều tránh không để cho quần áo họ vướng vào quần áo tôi, không để cho người họ đụng vào người tôi. Đến nhà ăn, những con mắt cứ ngó trừng tôi. Không ai chịu ngồi ăn với tôi. Nhiều lần, nhiều lần tôi nghĩ chắc trong người tôi có mùi cứt. Một bàn bốn phần ăn, mới chỉ có hai hoặc ba, còn thiếu một, hễ tôi kéo ghế ngồi vào là họ cầm bát đũa đứng dậy hầm hầm giận dữ bỏ đi. Cho nên túng thế nhiều khi mấy ông Đảng ủy, chi ủy buộc lòng phải ngồi với tôi. Nhưng bữa đó, họ ăn rất mau và bao giờ cũng ra khỏi bàn trước tôi. Có lần, tôi thấy một bàn ăn còn thiếu một người, tôi ngồi vào, lập tức ông Phước, Đảng ủy viên, người Bình Định, đứng dậy kéo theo một anh chàng thanh niên ngồi cạnh đi qua bàn khác ngay. Mặt ông ta có vẻ tức giận. Chàng thanh niên đó là con của ông ta, mới ra Bắc, đến thăm ông ta. Ông ta không muốn cho con mình ngồi ăn cùng bàn với một kẻ như tôi. Rất nhiều lần ngồi đợi lâu không có ai thèm đến ngồi, tôi nói với mấy bà, mấy cô nhà bếp chia cơm cho tôi ăn. Những người này đã biết tình cảnh của tôi, nên thường thấy thế họ đến và nói:
“Để em chia cơm cho anh ăn”.
Còn những người khác đến sau, gặp suất ăn cuối cùng không ngần ngại bưng những phần ăn còn lại sang bàn trống khác ngồi ăn. Còn tôi thì tôi ăn được, bao giờ cũng rất ngon và ăn nhiều.
Cô Mộng kể cho tôi nghe, nhiều lần đi lấy nước, có người cầm cái gáo đứng sau lưng tôi dứ dứ vào đầu tôi như muốn đánh. “Khi anh đi rồi em mới nói với họ là các anh làm cái gì thế. Muốn giết người ta thì cứ giết đi. Họ trợn em: Cô binh à? Em nói lại: Không binh gì hết. Các anh làm rứa tôi ngó không được. Các chi bộ ở đây hồi đó họp đều đề nghị tống cổ anh đi nơi khác cho khuất mắt. Nhưng mấy ông trên bảo cứ để anh ở đây là tốt nhất, để cho ở đây giáo dục và cải tạo anh. Mà em thấy, có giáo dục cải tạo gì đâu, họ chỉ hành hạ anh”.
Dần dần, nói thật, tôi cũng thấy quen đi cái không khí như thế. Một ngày, hai ngày, một tuần, hai tuần, một tháng hai ba tháng, một hai năm, không quen đi, không thấy như thường cũng không được.
Hơn một tháng tôi không đi ra khỏi chỗ tôi nằm, loanh quanh luẩn quẩn ăn rồi nằm, rồi ngồi, chỉ có tôi với cái bóng của mình. Rồi tôi phải đi hớt tóc, mua một vài thứ lặt vặt ngoài thị xã. Tôi xin họ, họ cho đi. Và mỗi lần như thế, bao giờ cũng có người lẽo đẽo xa gần bên tôi. Và rồi buổi chiều, cũng buồn, tôi xin đi chơi. Tôi lang thang khắp thị xã Sơn Tây, đi vòng quanh hồ, ngồi bên hồ hút thuốc, một mình không có ai nói chuyện, không có ai chơi. Rồi ghé vào mậu dịch ăn uống, ngồi ngoài lan can trên hồ uống một cốc cà phê ngó cây cối lao xao trên cù lao trước mặt. Rồi lững thững đi về, chế nước uống, rồi nằm, nghĩ vẫn vơ. Những lúc đó đầu óc tôi lùng bùng.
Những lúc đó tôi muốn viết.
Nhiều buổi chiều ăn cơm xong, tôi ngồi một mình trong phòng ngó qua cửa hành lang. Dãy nhà trệt bên kia che mất không thấy trời. Cô Mộng hay một chị nào đó đi qua liếc trước sau dúi vào góc bàn khuất sau bức tường một gói giấy, rồi ra cửa hành lang xuống dãy nhà trệt. Tôi biết đó là một vài gói thuốc hút, một cân đường hay một gói trà....
Tôi chán, tôi mệt mỏi. Tôi không còn muốn gì nữa. Tôi không còn cố gắng nghĩ xem rồi người ta sẽ làm gì tôi. Tôi không cần đề phòng gì hết. Tôi bị hành hạ và đọa đày. Họ muốn làm nhục tôi, muốn cho tôi hiểu rằng họ đã đối xử với tôi không phải như đối xử với một con người. Và tôi phải hiểu rằng họ có quyền làm như thế. Họ không coi tôi làm một tên tù, họ coi tôi là một con vật, một con chó, một con chó sống giữa một đám người không có chó để làm bạn và không sủa được [34].
Tôi bị tách khỏi sinh hoạt của con người, được con người cực chẳng đã phải cho ăn, cho uống, cho ngủ, nhưng không được quanh quẩn đến gần con người và nói tiếng người với họ. Tôi là một tên địch. Tất cả những người trước vốn quen tôi hay nói chuyện, lui tới với tôi bây giờ đều tránh mặt tôi. Họ sợ liên lụy, họ sợ bị mất lập trường. Tôi sống lặng lẽ một thân, một mình. Rồi tôi cứ sống lang thang bằng trí nhớ của mình. Tôi ngồi im với tôi. Dãy nhà trước mặt bên kia hành lang đã che mất trời và cây cối ở xa. Suốt một hai giờ, ba bốn giờ, khi nằm khi ngồi, khi uống nước, khi hút thuốc, không có việc chi làm, không có ai nói chuyện. Người đi ra đi vào. Kệ họ. Hết sức thì họ giết mình là cùng. Cái thằng người Quảng Ngãi lúc đi qua chỗ tôi là nhổ nước miếng xun xoe mặc quần áo tốt, cột thêm cái radio bên hông để kiếm vợ, đang đứng giữa phòng xức nước hoa, soi mặt vào cái gương nhỏ. Ông già Giác ngồi xếp bàn trên giường ở trong góc hút thuốc. Tôi uống với ông một ly nước trà bồm ướp hương bưởi, rồi ra ngồi lại một mình. Ông Tuyến đi qua nói, không đi chơi hả mầy, Đính, kệ cha, đi cho đầu óc nó khỏe ra, ông cười, tôi dạ. Ông quay lại, mầy đau bao tử, hút thuốc ít đi. Căn phòng cứ vắng dần. Trời im và vẫn còn lạnh. Tôi không biết làm gì hết và cũng chẳng có việc gì để làm. Tôi nhai hai viên Ka-vét, rồi ngồi dựa đầu vào giường. Lúc này là lúc vắng và im lặng nhất. Chưa biết bao giờ mới hết chiến tranh. Ông già Giác cũng đi chơi rồi. Ở dãy nhà trước mặt có tiếng cười nói của con gái và con trai giỡn nhau. Tôi cứ hút thuốc ngó lơ đãng ra phía trước, đầu óc trống không. Có hơn 5 giờ chiều. Và tôi bỗng lặng người đi. Trên bức tường của hành lang có mấy chữ viết bằng gạch vụn, vụng về chữ lên chữ xuống, chữ to chữ nhỏ nghiêng ngả đậm lạt không đều:
Chú Đính ơi
Chú Đính
Tôi xúc động, tôi xúc động vô cùng. Tôi biết người viết rồi. Đó là một thằng bé bảy tám tuổi con của người y sĩ quê ở Thừa Thiên, nhà ở cách phòng tôi bảy tám mét bằng một khoảng sân rộng. Thằng bé không được bình thường. Học đến lớp ba, sau một trận đau nặng, nó mất trí và trở nên tàng tàng. Thằng bé là bạn duy nhất của tôi lúc này. Nó thường đến với tôi và chẳng có ai để ý, nói năng rầy rà hay phê bình gì về việc nó quan hệ với tôi hết.
Chú Đính ơi
Chú Đính
Tôi là thằng Đính, tên Đính, là nó, là hắn. Có ai gọi tôi bằng anh, bằng chú đâu. Chỉ có nó, một thằng bé bị thần kinh gọi tôi bằng chú. Thằng bé đến, có khi leo lên giường ngồi bỏ hai chân đu qua đu lại, không nói gì hết. Có khi nó ngồi xuống thềm nhà bày ra các thứ gạch đá, lá cây chơi một mình. Rồi nó nhìn tôi cười, nói những câu không có đầu không có đuôi. Nhiều khi nghe ba mẹ gọi, nó cũng không về. Tôi phải dắt nó về. Biết ý, tôi chỉ đưa nó đến cửa, rồi quay lại. Sau này tôi thấy dưới cửa sổ nhà nó cũng có mấy chữ viết bằng gạch:
Chú Đính ơi
Chú Đính
Trần Vàng Sao
Tôi bị bắt
- IV -
Mỹ đánh thị xã Sơn Tây. Lần đầu tiên thị xã Sơn Tây bị ném bom. Hai quả bom rớt ngay trung tâm thị xã, có một quả trúng nhà hát nhân dân, sân khấu lộ thiên bị sạt mất một góc. Không có ai chết hay bị thương. Tình hình trở nên căng thẳng. Thị xã thỉnh thoảng đã có tiếng kẻng báo động có máy bay Mỹ. Bất cứ một đoàn bệnh nhân nào mới đến K65 đều được ban lãnh đạo cho biết tình hình và đặc điểm của thị xã Sơn Tây. Thị xã Sơn Tây là nơi tập trung nhiều thành phần phản động. Do đó việc quan hệ với người ở ngoài thị xã phải hết sức đề cao cảnh giác, nhất là sau vụ Mỹ tập kích nhà giam tù binh Mỹ. Ở đây có một nhà thờ Thiên chúa giáo. Một đêm Noel trước đây cán bộ miền Nam được lệnh là không ra đường và đến nhà thờ để đảm bảo an ninh. Hơn nữa, bọn phản động có thể lợi dụng việc có nhiều người đến nhà thờ và qua lại đông trên đường trong đêm Noel để củng cố thế lực và tuyên truyền xuyên tạc chế độ ta.
Khoảng 1 hay 2 tuần sau, các khối bệnh nhân họp khẩn cấp và bất thường. Tất nhiên là tôi không được dự. Sau bữa cơm chiều, mọi người trong phòng vội vàng sắp xếp đồ đạc gọn gàng. 8 giờ tối, ông tổ trưởng báo cho tôi sắp xếp đồ đạc chuẩn bị sáng mai 6 giờ sơ tán.
Nơi sơ tán là thôn Cam Đà, xã Cam Thượng, huyện Ba Vì, tỉnh Sơn Tây. Tôi cùng với hai người khác được sắp xếp ở nhà chị Hoàng thị Thuận. Một ông tên Lai, người Bình Định, tổ trưởng tổ Đảng, có nhiệm vụ canh giữ và theo dõi tôi. Và một anh chàng người Vĩnh Linh tên Kiêm. Anh này cũng là Đảng viên, người ốm cao, trắng trẻo, khoảng gần 30 tuổi. Trông anh ta bao giờ cũng ngớ ngẩn, nói năng lộn ngược, lộn xuôi khó hiểu. Người ta bảo anh ta bị thần kinh, hậu quả của một cơn sốt ác tính. Tôi thì cho là anh ta giả đò đau thần kinh để khỏi trở lại chiến trường. Anh ta có ý định xin đi học bổ túc văn hóa ở Từ Hồ. Anh Sinh, một người trong làng dắt tôi đến nhà chị Thuận. Tôi để đồ đạc giữa sân. Một đứa bé gái khoảng sáu tuổi đang đứng dưới mái hiên bước xuống sân chào tôi.
“Cháu chào chú ạ”.
“Chào cháu”.
Anh Sinh bước lên nhà nói to:
“Chị Thuận ơi, cho mấy bác ở nhờ một tí nha!”
Một người đàn bà răng đen, dáng người khỏe mạnh lớn hơn tôi độ 3 tuổi dưới bếp đi lên.
“Chào các bác. Mời các bác vào nhà xơi nước”.
Dân ở đây coi chuyện cán bộ nhân viên đến ở nhờ trong những ngày sơ tán là chuyện bình thường, và họ còn mừng nữa, vì như thế là vùng của họ an toàn, máy bay Mỹ không ném bom. Có điều lần này họ thấy lạ là những người đến sơ tán đa số là người miền Nam.
Lâu mới uống chè, ngon quá. Chỉ tiếc là không có gừng. Anh Sinh chào tôi về và nói, nhà của anh ở sau lưng nhà chị Thuận, mời tôi khi nào rảnh sang uống nước chè. Một lát sau ông Lai và anh chàng Kiệm đến. Vừa thấy tôi thằng Kiệm la lên bài bãi:
“Không, không, tôi không phải ở đây tề. Mà... mà... ở bên tê tề... thôi, thôi...” Nói rồi hắn xách va li đi ngay. Mọi người đều nghĩ là hắn nhầm chỗ. Chỉ có tôi biết là hắn sợ ở với tôi có thể bị liên lụy những điều không tốt.
Nhà chị Thuận rộng, cao ráo, kiểu nhà rường, lợp tranh, ba căn hai chái. Căn giữa để bàn thờ và tiếp khách. Bàn thờ sơ sài, một bát nhan, một bình sứ để cắm hoa, không có đèn cơi trầu; phía sau là một cái bàn soạn đã tróc hết sơn. Tôi và ông Lai ở căn dưới. Bốn mẹ con chị Thuận ở căn trên và chái trên. Cũng như hầu hết nhà ở đây, chung quanh nhà chị Thuận cũng có tường xây bằng gạch sống và một cái cổng nhưng không bao giờ đóng. Nhà có một cái sân rộng lát gạch, một giếng nước rất trong. Trước mặt nhà là một cái ao rộng như một cái hồ, mùa mưa thả bèo nuôi lợn, mùa nắng trồng nếp. Chung quanh ao là những hàng tre bao bọc.
Chị Thuận có chồng đi bộ đội vào chiến trường từ năm 1968. Mấy năm nay gia đình chị không nhận được tin tức gì của anh hết. Suốt ngày chị ở ngoài đồng. Cơm nước do mấy đứa con ở nhà lo. Chị có 3 đứa con, tất cả đều là gái. Đứa đầu tên Xuân học lớp 7, đứa thứ hai tên Thu học lớp 4, đứa út tên Lan học lớp 1. Hết buổi học, đĩ Xuân ra đồng giúp mẹ để lấy thêm công điểm. Đĩ Thu đi học về là quảy triêng gióng đi hốt phân trâu nộp cho hợp tác xã. Xuân, Thu đứa nào cũng đen nắng, chỉ có đĩ Lan là trắng và mập tròn. Về nhà chúng nó làm việc không hở tay, đứa nấu cơm, đứa vớt bèo cho lợn, giặt giũ, múc nước vào chum... Cũng như hầu hết các gia đình quanh đây, nhà chị Thuận ăn no, nhưng không sướng. Bữa nào cũng chỉ có rau muống hái ở ruộng phần trăm chấm với nước tương. Cá, thì chỉ có cá vụn cũng kho với tương, nhưng chỉ thỉnh thoảng. Lâu lâu tôi thấy chị Thuận chặt một hai cây tre đem ra chợ Mía những ngày phiên bán được bảy tám đồng. Những ngày đó cả nhà được ăn cá. Ở đây, nhà nào cũng có một hoặc hai ba cái chum tương để trước sân. Cứ nhìn chum to chum nhỏ, một chum hay hai ba chum thì cũng biết nhà đông hay ít người. Tương làm bằng nếp và ngô. Tương bao giờ cũng được dự tính ăn cho đến giáp vụ, ngoài tương, muối và ớt ra, tôi không thấy nhà chị Thuận có thêm một thứ gì khác nữa, không có mì chính, không có đường, nước mắm... Mỡ thì phải đợi đến Tết. Còn đường thì cũng phải đợi đến tết, lễ Quốc khánh 2-9, hợp tác xã mới phân phối cho một nhà một ít mật mía để nấu chè. Trẻ con, trừ một vài nhà có cán bộ làm việc ở thị xã hoặc ở Hà Nội, hầu hết ít khi được ăn kẹo. Chúng để dồn lông vịt hoặc những thứ lặt vặt sắt đồng gì đó, thỉnh thoảng đổi cho mấy bà đồng nát lấy một hai que quệt mật mía ăn dẻo như kẹo. Bánh mì, ngay ở thị xã Sơn Tây dân cũng không có huống hồ là ở đây. Sáng nào tôi cũng để phân nửa cái bánh mì cho mấy đứa nhỏ. Ông Lai thấy thế cũng làm theo. Chị Thuận nói, chú không để mà ăn, cháu nó đã có cơm, khoai sắn rồi. Tôi cười, tôi uống nước trà quen rồi chị ạ. Chị thấy không, sáng sớm mà tôi cũng một bát chè xanh đậm cũng được. Chị Thuận nói, tôi thấy ít người trẻ mà uống nước chè đặc như chú. Cũng quen thôi chị ạ.
Tôi thường ngồi nói chuyện với chị Thuận. Ngoài những lúc làm việc mệt nhọc, khi có hơi thư thả, tôi thấy chị buồn buồn.
“Mỗi lần thấy mấy chú là tôi lại nhớ đến nhà tôi. Nhà tôi đi bộ đội, năm 1968 vào Nam, ở chiến trường Tây Ninh. Một hai năm đầu nhà còn nhận được thư. Mấy năm nay thì không có tin tức gì hết. Tôi biết ở chiến trường ác liệt lắm. Anh ấy chắc không còn nữa. Chú biết không, mỗi lần nghe trên xã có giấy báo tử gửi về, những người có chồng đi B như tôi, cô Thìn, người cứ như mất hồn, không muốn làm, muốn ăn gì nữa. Mấy chị em chỉ còn ôm nhau mà khóc thôi”.
Một hôm ăn cơm tối xong, chị Thuận vội vã qua nhà chị Thìn. Một giờ sau chị về, chị nói với tôi: “Có giấy báo tử gửi về trên xã. Không biết đến phiên ai đây chú ơi. Đêm nay nhà nào cũng có người khóc”.
Những ngày đó không khí trên Cam Đà nặng nề. Chị Thìn qua nhà chị Thuận, chị Thuận đến nhà chị Thìn, qua những nhà khác có người đi Nam ngồi với nhau thút thít, mắt đỏ hoe.
Năm 1976, cháu Xuân gửi thư từ Cam Đà vào Huế báo cho tôi biết là bố cháu đã hy sinh năm 1968 tại chiến trường Tây Ninh mà đến năm 1976 gia đình mới nhận được giấy báo tử.
Những ngày sơ tán ở Cam Đà tôi được sống dễ chịu hơn. Từ cái không khí như tù ngục, luôn luôn bị một đám đông ba bốn trăm con người canh giữ, rình mò, thù ghét, khinh bỉ, tôi bỗng có được một không gian rất rộng và những con người chung quanh hiền từ, vui vẻ. Họ cười nói với tôi bình thường. Họ xem tôi cũng là người như họ. Tôi được họ gọi bằng anh, bằng chú, bằng em. Hàng ngày tôi chỉ chạm mặt với cái đám đông coi tôi là thù địch ở nhà ăn. Ở đó, tôi vẫn ngồi ăn một mình, hoặc chung bàn với các ông Bí thư Đảng ủy, Bí thư chi bộ... ngay cả ông Lai ở cùng nhà với tôi cũng tránh không ngồi ăn với tôi.
Bây giờ ăn cơm xong tôi cứ thủng thỉnh đi về nơi ở. Có khi dọc đường nhiều nhà dân còn gọi tôi vào uống nước nói chuyện. Ông Lai có nhiệm vụ canh chừng tôi. Trừ đi ăn cơm, đi mua hàng, còn đi hớt tóc, đến phòng đọc sách, ra đồng chơi, tôi đều phải xin phép ông Lai. Ông Lai, người thấp, to bề ngang, hai cằm bạnh ra, vai rộng và gù lên, da mặt có màu chì. Cặp mắt ông ta bao giờ cũng lừ đừ nhìn tôi. Ít khi ông ta gọi tôi bằng anh, nói với tôi bao giờ ông cũng nói trổng và từng tiếng một rất to như ra lệnh. Ông ta thường tránh ngồi chung nói chuyện với tôi. Bất đắc dĩ lắm khi có bà con hàng xóm của chị Thuận đến chơi, buộc lòng ông phải ngồi với tôi. Nhưng lúc đó ông ta cũng tránh nói với tôi, vì nói với tôi ông phải gọi tôi bằng anh.
Sinh hoạt hàng ngày của tôi không còn bị bó hẹp quanh quẩn một mình tôi nữa. Tôi cảm thấy mình được nhẹ nhàng hơn. Tôi đi ra, tôi đi vào không có những con mắt trừng trợn, những bãi nước miếng đánh bạch dưới đất. Tôi cười, tôi nói được tiếng to. Đám trẻ con thường đến sân nhà chị Thuận đánh thẻ, nhảy dây. Tôi ngồi xem chúng chơi đùa, cười nói. Tôi lấy giấy báo xếp tàu bay, tàu thủy cho chúng chơi, tôi vỗ tay hát hò với chúng. Tôi thường sang nhà anh Đại, anh Sinh, nhất là nhà anh Cận, uống nước nói chuyện. Anh Đại, trước đi bộ đội bị thương, phục viên về nhà làm ruộng. Anh Sinh thì đã lớn tuổi, xã viên. Anh Cận trẻ hơn tôi một hai tuổi, đi bộ đội, kém sức khỏe được giải ngũ, bây giờ là cán bộ của một cơ quan nào đó ở thị xã. Anh Cận có vợ và hai con, vợ anh là xã viên, người xinh đẹp. Nhà của họ ở xây lưng nhau, có cửa sau đi băng hoặc đối diện với nhà chị Thuận. Tôi chuyện trò với họ vui vẻ và khuây khỏa. Mỗi lần uống nước tại nhà anh Cận, thế nào rảnh tay, ông cụ thân sinh của anh Cận cũng đến ngồi góp chuyện. Hai cô em gái, một cô là giáo viên cấp I, một cô tên Thể đang học lớp 10, bỏ dở về làm nông giúp gia đình, thỉnh thoảng ghé lại ngồi nghe. Cô chị có khi nói, nhưng cô em thì không, chỉ ngồi im và cười. Chuyện nói thường là chuyện đời, chuyện vui, chuyện phong tục tập quán xoay quanh điếu thuốc, chén trà. Họ hay hỏi tôi ở Huế, về đời sống của người dân ở Huế. Tôi kể hết với họ những gì tôi đã sống và thấy ở Huế, không giấu, không thêm bớt.
Sống với họ, nói chuyện thành thật với họ, mới hiểu được tấm lòng của họ. Không phải họ không thích nói chuyện chính trị, nhưng như ông cụ thân sinh anh Cận nói: các bác đó (chỉ những cán bộ miền Nam ở sơ tán) hễ nói chuyện bao giờ cũng tỏ vẻ động viên chúng tôi, lên lớp chúng tôi. Chúng tôi không thích thế. Ngồi với nhau nói chuyện nên hòa đồng mới vui, có thế uống chén nước hút điếu thuốc mới ngon.
Ông Lai không bằng lòng ra mặt khi thấy những người chung quanh thân mật với tôi. Nhưng ông ta cũng chịu. Tôi vẫn sống bình thường, không bao giờ tỏ ra là mình cố gắng phấn đấu để lấy lòng những người như ông ta. Tôi không sợ gì cả. Tôi có tư cách của tôi và tôi phải giữ tư cách đó.
Dần dần, rồi cũng có những cán bộ bệnh nhân K65 đến chơi với tôi. Trong số những người này, bác Nhã là người gần gũi với tôi nhất. Lúc sơ tán về đây, bác ở nhà anh Cận nên tôi hay gặp bác, thành ra thân quen. Bác Nhã là người Nam Định, khoảng gần 60 tuổi. Năm 17, 18 tuổi vì gia đình quá cực, bác đi phu mộ. Trên tàu từ Hải Phòng vào Nam bác làm quen với một cô gái cùng quê và kết làm vợ chồng ngay. Bác kể, lễ cưới là mấy chai li-mô-nát, vài cây kẹo, quây quần vài thằng bạn cùng quê. Vào Nam, hai vợ chồng làm phu cạo mủ cao su cho đồn điền của một thằng Tây. Một năm sau, vợ bác ốm nặng và chết. Kháng chiến chống Pháp, bác đã tham gia làm cơ sở cách mạng, sau đó vì hay thay đổi chỗ làm việc nên bác mất liên lạc. Đến kháng chiến chống Mỹ bác hoạt động lại, rồi bị lộ, cơ sở vỡ, bác thoát ly ra chiến khu. Vì bị bệnh vết thương cũ hồi chín năm tái phát, lại tuổi già, bác được ra miền Bắc chữa bệnh. Đến nay bác vẫn chưa vợ chưa con. Sau một thời gian chữa bệnh, bác xin đi phép về thăm quê. Bác kể, đã mấy mươi năm rồi, trở về quê tôi vẫn nhớ đường và vào đúng nhà của mình. Chị tôi mừng đến tái mặt, không ngờ tôi còn sống. Nhưng sau đó, chị tôi bắt đầu nghi ngờ về tôi. Chị tôi hỏi xa hỏi gần tôi về bà con, cô bác xem có phải tôi thật là thằng Hoàng Văn Nhã không. Khi biết tôi thật là thằng Nhã rồi, chị tôi và bà con lại nghi tôi là Mỹ ngụy cài ra hoạt động gián điệp. Tôi đoán biết điều đó và đưa giấy đi phép và các thứ giấy tờ khác làm chứng. Bà cũng không tin. Chị tôi lúc đó là Bí thư chi bộ xã. Thế là bà nói Ủy ban hành chính xã điện ra K65 hỏi. Khi nhận được điện trả lời của K65 bà mới tin.
Chiều nào cơm nước xong, bác Nhã cũng rủ tôi ra đồng chơi. Bác nói: “Tôi thì sợ đéo gì, thằng cha Nai (Lai) nàm (làm) như anh là tù không bằng. Anh cứ đi chơi với tôi, không sợ gì hết”. Từ khi quen bác Nhã, bữa ăn nào bác cũng gọi tôi cùng đi.
Về sau có 3 người mới chuyển đến thường hay đến gặp tôi nói chuyện. Đó là các anh Linh, Kim và Hiến. Cả ba người đều là người Quảng Nam và là Đảng viên. Loáng thoáng tôi đã gặp họ ở nhà ăn. Họ tự động đến ngồi ăn cùng mâm với tôi cười nói vui vẻ. Trong câu chuyện qua lại, họ cho tôi biết tên những người bạn của tôi trước học ở Huế sau vào Đà Nẵng hoạt động cách mạng. Tôi có những người bạn mà họ cũng quen, họ có những người bạn mà tôi cũng quen, người Quảng có, người Huế có. Chúng tôi quen biết nhau là như thế. Rồi họ thỉnh thoảng đến chỗ tôi ở nói chuyện, mượn sách báo. Linh có nói: tụi tôi đến chơi với anh, vì thích anh. Anh đừng nghi là tụi tôi được phân công theo dõi và tìm hiểu anh để báo cáo.
Năm 1976, tôi hay gặp Hiến ở Huế, lúc đó Hiến học đại học sư phạm sử. Tốt nghiệp xong Hiến đi dạy đâu ở Quảng Nam. Từ đó tôi không được tin gì về Hiến. Một người bạn rất thân của Hiến tên Phong có cho tôi biết hình như Hiến mất tích ở Campuchia. Kim thì học đại học mỹ thuật Hà Nội. Sau ngày giải phóng, Kim làm việc ở Đà Nẵng. Trong khi bước giật lùi để ngắm bức tranh đang vẽ ở trên sân thượng của một tòa nhà cao tầng. Kim đã hụt chân rơi xuống đất chết. Còn Linh, sau thời gian ở K65, tôi không có dịp gặp lại.
Những ngày này còn có một người thường lui tới với tôi là ông Đặng Kiếm Ba. Ông tên thật là Đặng Ưa, người Phú Yên, trên bốn mươi tuổi. Vì mê nhân vật Đặng Kiếm Ba trong truyệnRừng thẳm tuyết dày của Trung Quốc nên ông lấy bí danh đó. Tôi đã quen ông ta lúc ở bệnh viện E1 (Thạch Thất, Hà Tây). Hồi đó ông là Phó bí thư Đảng ủy khối bệnh nhân. Lúc K65 chưa sơ tán còn ở thị xã Sơn Tây, ông ta cũng tránh mặt tôi. Về đây, ông lại hay đến gặp tôi, nhờ tôi vẽ cho ông học tiếng Anh. Ông cho tôi cuốn “English Grammar” for Pedagogical Institutes của Liên Xô mà ông ta mua ngày 23.5.1959 ở Hải Phòng. Cuốn sách này bây giờ tôi vẫn còn giữ.
Ông Ba hay đi Hà Nội, tôi nhờ ông mua giúp mấy tờ báo Liên Xô, Trung Quốc bằng tiếng Anh và tiếng Pháp. Tôi nói với ông Ba: “Tôi muốn xem những tờ báo này để biết thêm tin tức. Nhưng tôi rất ngại. Tôi sợ họ nói tôi đọc báo địch. Nếu có ai hỏi anh cứ nói là anh họ tôi mượn”. Một hôm tôi đi chơi đến 6, 7 giờ tối mới về thằng cha Lai nghiêm mặt, gù lưng đứng trên thềm nhà trợn mắt, hai cái môi thâm tím rung lên, mất bình tĩnh, hỏi to, lắp bắp từng tiếng:
“Anh... anh... đi đâu... nãy giờ... mới về? Há... há...”
“Anh Ba rủ tôi đi chơi”.
Ông ta thuận chân bước xuống thềm, không nói gì nữa. Ông Ba lúc đó là ủy viên thường vụ Đảng ủy phụ trách thanh niên khối bệnh nhân.
Tôi bước vào nhà, chị Thuận đang ngồi bên phản đứng dậy ra bàn giữa rót nước, nói:
“Chú Đính uống nước chè xanh. Cháu nó mới nấu”.
Tôi dạ.
Việc người ta đối xử với tôi không giống như người khác, những người dân thường gần gũi với tôi dẫn dần đã nhận thấy.
Sau khi về đây khoảng hơn hai tuần, một buổi sáng thứ sáu, cô Mùi và cô Chanh, y tá của K, đem thuốc đến phát cho bệnh nhân. Như thường lệ, tôi đến nhận thuốc, cô Mùi bảo:
“Hôm nay anh không có thuốc”.
Tôi cứ nghĩ hôm qua cô y sĩ khám bệnh đã quên ghi phần thuốc của tôi. Đến trưa, chiều cũng không thấy ai đến phát thuốc. Sáng thứ 7, cô Mùi, cô Chanh đến phát thuốc. Cô Chanh đưa thuốc cho ông Lai, cô Mùi gấp cuốn sổ phát thuốc lại. Tôi hỏi:
“Còn thuốc tôi?”
Cô Mùi lật sổ ra, rà ngón tay trên danh sách bệnh nhân.
“Thuốc của anh cắt rồi. Anh không có thuốc”.
Tôi biết sau một thời gian điều trị, y bác sĩ cắt hẳn hoặc giảm bớt lượng thuốc cho bệnh nhân để theo dõi tác dụng của thuốc, và sau đó tùy theo tình trạng sức khỏe của bệnh nhân mà thay đổi cách điều trị. Thuốc cắt hoặc giảm là thuốc chữa bệnh, còn các loại thuốc bổ thì vẫn giữ. Tôi bây giờ thì thuốc chữa dạ dày và thuốc bổ đều cắt hết. Sáng thứ 5 tuần tới, cô Xiêm y sĩ đến khám bệnh. Khám cho ông Lai xong cô cắp sổ đi. Cô Xiêm xem như tôi biết là kể từ nay tôi không được khám bệnh và phát thuốc nữa.
Máy bay Mỹ đã ném bom một số vùng chung quanh xã Cam Thượng. Thỉnh thoảng thôn Cam Đài có kẻng báo động. Tôi và ông Lai giúp chị Thuận đào một cái hầm ếch đủ cho 5 ngưới núp dưới bụi tre trên bờ ao. Đất mềm dễ đào, nhưng cũng phải hai ngày mới xong. Chị Thuận nói với tôi:
“Mới đầu tôi cứ tưởng là chú không làm được việc nặng”. Tôi ngả hai bàn tay chỉ cho chị Thuận thấy những dấu chai, nói:
“Chi chớ đào hầm thì tôi cũng quen rồi, chị ạ”.
Cứ theo tiếng kẻng báo động mà biết máy bay Mỹ ở gần hay ở xa và đã xuống hầm hay chưa. Ít khi tôi xuống hầm. Tôi cứ ngồi ngoài miệng hoặc ra sân xem tên lửa rượt máy bay Mỹ hay các trận không chiến. Ông Lai cứ rình cơ hội và nặng lời với tôi:
“Sao không chịu xuống hầm. Xuống hầm đi, ngồi trên đó để làm gì? Không sợ dân họ phê bình à?”
Tôi không xuống.
“Nó đánh có điểm rồi”.
Bây giờ chiều chiều đi làm về, cơm nước xong, chị Thuận và đĩ Xuân ngồi đánh mũ rơm và con cúi. Lúc này trẻ con trong thôn đi học đều đội mũ rơm và mang một vành rơm ở sau lưng. Các lớp học đều có thành đất cao một mét vây quanh và giao thông hào dẫn ra ngoài. Tôi vừa nói chuyện với mẹ con chị Thuận, vừa tập đánh mũ rơm cho vui. Chị Thuận nói:
“Chiến tranh chưa hết, chúng tôi còn khổ. Chắc mấy chú, mấy bác ở chiến trường đã quen với bom đạn rồi. Ở đây, hễ nghe tiếng máy bay là chúng tôi quá hãi. Ôi, nó mà ném bom xuống đây chắc chết hết thôi”.
Đĩ Xuân hỏi tôi:
“Ở chiến trường Mỹ nó ném bom dữ lắm phải không, chú Đính?”
“Trong đó, không khi nào là không nghe tiếng bom đạn, không khi nào vắng tiếng máy bay. Phút im lặng, lúc không có tiếng bom, không có tiếng máy bay là lúc căng thẳng nhất, là lúc cái chết có thể đến với mình chưa biết khi nào”.
“Sao thế hở chú?”
“Lúc đó sẽ có B52”.
“Hãi quá chú nhỉ! Thế chú có sợ không?”
“Sợ chứ! Nhưng rồi cũng quen đi như mình quen với cái chết bên cạnh mình hàng ngày”.
“Chú nói cái gì thế?”
“Lúc mới lên rừng, thấy có người chết, nhất là những người vừa mới ngồi nói chuyện với mình, mới đi mới đứng đó, hay vừa mới gặp mình hôm qua. Chú sợ và ớn. Nhưng rồi, chiến tranh ngày càng ác liệt, ngày nào cũng có người chết, và lâu thành ra quen đi”.
“Chắc chú thù thằng Mỹ lắm, chú Đính nhỉ?”
Chị Thuận cười:
“Cái con này, không thù sao chú lại tham gia cách mạng”.
Đĩ Xuân:
“Chúng cháu ghét thằng Mỹ vì chúng nó ném bom giết nhiều người quá”.
Rồi chị Thuận lại liên tưởng, chị nói:
“Bố chúng nó đi B từ năm 1968. Mấy năm nay không có tin tức gì cả. Chắc không còn đâu, chú Đính nhỉ?”
“Nói thế chứ... Có lẽ anh ở chiến trường Nam bộ, đường sá xa xôi, thư từ khó khăn, mà thường lại hay bị thất lạc dọc đường”.
Chị Thuận nhìn tôi:
“Có mấy người đi bộ đội cũng một lần với anh ấy, người thì đã chết, người về được thì thương binh cụt chân, cụt tay... Tôi chỉ mong nhà tôi... miễn còn sống là được...”
Chị Thuận bỏ cái nùi rơm đang đánh xuống, đứng dậy đi vào nhà. Tôi nghe có tiếng rót nước vào cốc. Những lúc đó không bao giờ có ông Lai.
Thỉnh thoảng những cơn dạ dày lại hành tôi. Nhiều lần tôi phải chọc cổ mữa để cơn đau dịu bớt. Liên tiếp mấy ngày tôi ăn cơm không được. Một buổi sáng tôi ra ngoài nhà ăn báo cháo. Phòng trực của y bác sĩ cũng ở trong nhà ăn. Thấy tôi báo cháo, bà Quy, bác sĩ trưởng khoa hỏi:
“Anh đau à?”
Bà ta hỏi nhưng không cần tôi trả lời. Bà quay sang cô Chanh, y tá, bảo:
“Tôi đã bảo mấy cô khi nào anh này đau thì cho anh ít giọt cồn Ben la đon”.
Buổi chiều đi ra đồng chơi với bác Nhã, bác nói:
“Anh đau lắm hay sao mà ăn cháo. Tôi trông anh lúc này hơi xanh đấy”.
Tôi nói là mấy tuần nay tôi không được phát thuốc và khám bệnh nữa.
“Nàm gì tồi thế!”
Hôm sau trên đường ra chợ Mía tôi gặp cô Xiêm, cô y sĩ phụ trách khu vực tôi. Cô Xiêm đi lại gần tôi làm như tình cờ đi cùng đường. Không có ai đi cạnh tôi. Cô nói nhỏ và rất nhanh:
“Bà Quy ra lệnh cho em không khám bệnh và phát thuốc cho anh đấy. Em đang vội, cho em đi trước”.
Chắc là bác Nhã đã nói với cô Xiêm về chuyện tôi đau. Những ngày này tôi đi nằm sớm. Cái bụng cứ đau lâm râm, đến hai ba giờ sáng lại đau thật dữ dội. Tôi nằm co người lại, ép cái chăn bông vào bụng. Một buổi tối, cô Xiêm đi vào, cô để cái đèn bão bên góc nhà. Không có ông Lai. Cô bước lại giường tôi:
“Anh Đính sao mà đi ngủ sớm thế?”
Cô cúi xuống bên mùng:
“Anh đau lắm à?”
Cô vén mùng lên, ấn vào tay tôi mấy viên thuốc.
“Ka-vét đấy. Anh uống cho đỡ đau. Thôi, em về”.
Cách một hai hôm sau, buổi chiều, tôi đang ngồi đọc báo trên cái ghế dài giữa sân, cô Xiêm đến. Cô nhìn vào trong nhà:
“Bác Lai có nhà không anh?”
“Ông ta đi đâu đó”.
Cô ngồi xuống ghế lật tờ báo để bên cạnh bỏ vào một gói giấy nhỏ rồi gấp tờ báo lại.
“Em xin của mấy ông bệnh nhân đó. Khi nào có Bismuth em sẽ mang lại cho. Anh đừng cho ai biết hết. Chết em đó. Thôi em qua bên bác Nhã cái đã”.
Trước kia mỗi lần khám bệnh, tôi hay nói năm điều ba chuyện với cô Xiêm cho vui. Nay thì cô ngại. Cô Xiêm có một khuôn mặt tròn, hai má đầy và một chiếc răng còi. Cô sinh ở Thái Lan nên có tên là Xiêm. Bây giờ mỗi lần gặp tôi như thế, cô lại dúi cho tôi vài viên Ka-vét, vài gói Bismuth, có khi cô nhờ bác Nhã đưa cho tôi.
Mùa hè ở đây quá nóng. Nhà nào cũng có tường gạch sống bao quanh nên kín gió. Buổi trưa không nằm nổi trong nhà, tôi hay ra ngồi trên bờ tre ngoài ao để đọc sách. Lúc này tôi đang đọc dỡ cuốn Các học thuyết về giá trị thặng dư (phần thứ hai) của Karl Marx. Từ ngày về đây nhờ ở phân tán, ít ai nhòm ngó, tôi thỉnh thoảng lại đọc sách và ghi chép, nhưng chỉ ghi chép hoặc tóm tắt những điều trong sách mà không ghi những suy nghĩ của mình về những điều đang đọc. Sách vở của tôi, tôi để ngay ở đầu giường hoặc trên bàn của chị Thuận ở giữa nhà. Thỉnh thoảng tôi lên chỗ cô Minh, người giữ tủ sách của K, mượn sách báo. Cô bảo tôi, cần sách gì mà tủ sách ở đây không có, cô sẽ về thư viện thị xã mượn giúp cho.
Ông Lai, người canh giữ tôi, hết sức khó chịu khi thấy tôi đọc sách, ngay cả lúc tôi cầm tờNhân dân trên tay. Mặt ông ta hầm hầm, nhưng không nói gì cả. Những lúc đó cái lưng của ông ta gù xuống.
Máy bay Mỹ đánh những vùng chung quanh ngày mỗi căng và dày hơn. 7 giờ sáng báo động xa, 9 giờ báo động gần, 3 giờ chiều báo động, nửa đêm báo động. Nghe tiếng kẻng thì nghe tiếng người lao xao, chộn rộn, tiếng gọi nhau... rồi im lặng... Không khí như khô đi... rồi vỡ tan trong tiếng máy bay gầm rú và tiếng súng lớn súng nhỏ lụp bụp trên trời dưới đất... rồi báo yên, sinh hoạt lại như thường. Học trò đội mũ rơm, mang con cúi sau lưng đi học, xã viên ra đồng, chợ Mía vẫn đông. Nguyễn Hữu Ngô đến thăm tôi trong những ngày này, buổi trưa nắng nóng [35].
Tôi đang ngồi ăn cơm một mình. Nhà ăn đã vắng bớt. Tôi ngó trật lên, thằng Ngô mặt đỏ lù lù ở đâu không biết đang đứng trước mặt tôi. Hắn cười rồi kéo ghế ngồi bên cạnh tôi.
“Răng rứa mi?”
Tôi cười, ừ. Nhà ăn lại láo xáo. Những người đã cầm bát đũa ra về đứng lại. Mấy ông Đảng ủy, chi ủy, hội đồng bệnh nhân nhìn nhau. Những người đang ăn dừng đũa, ngừng nhai, nói nhỏ. Thằng cha Lai với ông Hà, Chủ tịch hội đồng bệnh nhân ghé sát đầu nhau thì thầm bên thùng nước uống.
“Răng mi biết tao ở đây?”
“Tao sơ tán gần Chùa Tây Phương. Hắn đẩy gọng kính sát mũi. Rứa mà tao tưởng mi đi K3 rồi”.
“Thà rứa còn hơn”.
Hắn khoanh tay lên bàn nhìn tôi cười, rồi nhìn chung quanh:
“Họ ngó mi với tao đó”.
Tôi và hết chén cơm đứng dậy:
“Về chỗ tao nói chuyện”.
Thằng Ngô dắt xe đạp đi theo tôi. Tôi nói:
“Ở sơ tán có đỡ. Ở dưới thị xã bọn hắn cứ chằm hăm tao”.
Thằng cha Lai gù vai lạch bạch sau lưng bọn tôi cách mười thước.
Tôi chế một bình trà, mang ghế ra sân chỗ có bóng im ngồi nói chuyện với thằng Ngô. 15 phút sau ông Lai đi vòng ngã sau nhà anh Cận về tới. Thằng Ngô nói:
“Bà Trai và ông Doãn Triều đã cho bọn tao biết chuyện của mi. Bọn hắn làm dữ lắm phải không. Ông Triều và bà Trai nói là mi bị đấu tố”.
“Cả hàng trăm con người nhảy vào chửi mắng xỉ vả tao”.
“Kinh”. Hắn làm thinh rồi tiếp, “nghe bọn hắn đòi bắn mi”.
“Thiếu một chút nữa là tao bị xé xác”.
“Vì răng tụi hắn không đưa mi đi K3?”
“Mi ít biết. Tất cả những người ở đây đều coi tao là kẻ thù, là chó. Để tao ở đây là một cách hành hạ tao tốt nhất”.
“Khiếp!”
Tôi hỏi:
“Thằng Thanh, thằng Sở ra sao rồi?”
“Hai đứa ở Hà Nội. Thỉnh thoảng có về nơi cơ quan sơ tán”.
“Sau vụ của tao, tao nghe mi còn đọc trên đài giải phóng buổi phát thanh cho Huế, tao mừng. Tao cứ lo bọn hắn làm khó dễ với mi. Lúc hỏi cung tao, bọn hắn có đưa bài “Cảnh tượng” của mi cho tao đọc và hỏi tao có biết của ai không, bài thơ nói gì? Tao bảo tao không biết và nói đó là một bài thơ tả cảnh. Mi có nhớ tờ Hòn Kẽm mi cho tao mượn không? Bọn hắn bảo tao có liên hệ với bọn sinh viên Việt Nam phản động bên Tây Đức”.
Thằng cha Lai cứ lảng vảng vô ra trên thềm nhà, ngoài sân, mắt liếc, mặt hầm hầm. Kẻng báo động có máy bay Mỹ. Tôi với thằng Ngô xuống ngồi dưới hàng tre bên bờ ao. Tôi nói với thằng Ngô:
“Bọn hắn nghi CIA cài tao vào để phá hoại”.
Chị Thuận và mấy đứa nhỏ xuống hầm. Ông Lai ngồi bên miệng hầm mắt cứ đảo qua hai đứa tôi. Kẻng báo động khẩn cấp. Có tiếng bom nổ xa. Súng nhỏ súng lớn bắn loạn xạ trên trời. Tôi kéo tay thằng Ngô đứng dậy:
“Lên xem tên lửa rượt máy bay”.
Anh Đại, anh Sinh và những người hàng xóm đều đứng trên sân ngẩng mặt ngó lên trời.
Trên trời máy bay Mỹ chao đảo tránh tên lửa.
Tôi hỏi thằng Ngô:
“Mi thấy không chiến lần nào chưa?”
“Rồi”.
“Ban đêm thấy đạn đan trên trời mới thú”.
Đĩ Xuân, con chị Thuận cũng chạy lên sân. Tên lửa nổ lụp bụp trên cao. Tôi hỏi đĩ Xuân:

cháu có phân biệt được tên lửa nổ với máy bay cháy không?”
“Khói màu da cam là của tên lửa, khói nâu là máy bay cháy”.
Kẻng báo yên. Thằng Ngô về. Tôi đưa nó một đoạn.
“Rảnh, tao tới mi chơi”.
Hắn lên pê-đan, đạp xe chậm chậm dưới hàng bạch đàn. Hắn quay đầu ngó lại, đưa tay khoát khoát. Tôi nhìn theo cho đến khi hắn đi khuất.
Tôi vừa bước chân lên thềm nhà, ông Lai đang ngồi trong nhà đứng dậy hỏi liền:
“Anh đó là ai thế?”
“Bạn tôi”.
“Anh ta ở đâu?”
“Đài giải phóng”.
Một lát sau, ngó lui ngó tới tôi không thấy anh ta ở đâu nữa. Chiều ngày hôm sau, bác Nhã cho tôi biết: “Tôi nghe mấy ông trong Đảng ủy nói rằng lâu nay chúng nó nằm im, bây giờ đã bắt liên lạc với nhau. Cái anh bạn đến thăm anh đó, họ bảo là đồng bọn với anh đó”. Tôi bảo họ: “Bạn bè lâu ngày không gặp, người ta đến thăm nhau là chuyện thường. Có gì đâu”.
Nửa tháng sau thằng Lê Ích Đề đến thăm tôi. Đề đến vào buổi chiều, hắn đem theo mấy bao Tam Đảo và một gói trà. Hắn nói:
“Tao ở Viện điều dưỡng gần đây. Người ta nghi tao bị phổi nên chuyển lên đó để điều trị. Vừa rồi có mấy người ở đây chuyển lên chỗ tao. Tao nghe được chuyện của mi. Bữa ni sơ tán về đây, tao đến gặp mi và hỏi cho ra chuyện”.
Tôi kể sơ cho hắn nghe mọi sự của tôi. Hắn ngồi nghe thỉnh thoảng hơi mím môi. Hắn nói:
“Bọn hắn nói mi dữ lắm. Mi là một tên phản động, một thằng gián điệp, CIA. ‘Hết ai mà hắn dám nói xấu cả Hồ chủ tịch’. Bọn hắn căm thù mi, coi mi là địch, là Mỹ ngụy. Hôm đem mi ra đấu ở hội trường K65 có thằng bảo nếu có súng hắn bắn mi ngay tại chỗ. Bọn hắn cho Đảng khoan hồng với mi như thế là quá lắm rồi. Bọn hắn đã đề nghị đưa mi đi cải tạo lao động. Có thằng còn nói những thằng như mi không thể cải tạo được, nhưng phải ‘bỏ tù cho nó biết tay’. Tao nghe cũng ớn”.
Thằng Đề có tật nói là hay thít tha. Hắn nói bao giờ cũng chậm rãi, sau một câu, hắn mở miệng ra tưởng như cười. Lê Ích Đề ở trong rừng cũng như ra đây gặp nhiều khó khăn về lý lịch. Và hình như vì lý do đó mà hắn phải ra Bắc. Tổ chức cho là trong gia đình hắn có người liên hệ với bọn Đại Việt. Thằng Đề hỏi sinh hoạt hàng ngày của tôi bây giờ thế nào, tôi nói:
“Tao coi như bị bắt và sống tù. Đi đâu cũng phải xin phép. Ra khỏi chỗ ở là có người đi theo. Ở đây tao không có bạn bè. Sống như thế này tao nhớ tụi bây quá sức”.
“Mi còn ở đây lâu mau nữa?”
“Tao cũng chịu, không biết”.
Tôi chỉ một cái thùng đang nức dở và mấy cái rổ, rá, nia cũ có, mới có chưa nức có, nói:
“Hàng ngày tôi ngồi nức rổ rá cho vui. Tao lấy thúng mủng trong nhà ra nức lại hết. Có mấy ông già người Quảng Ngãi mới đến thường đến đây đan rổ rá. Họ đan, tao nức giùm”.
“Mi mà cũng biết nức đồ rứa à?”
“Ngó họ làm mình tập thì biết. Đan thì tao chịu. Tao không kiên nhẫn vót nan. Nhưng nức và chạy chân rết thì tao làm rất đẹp. Thôi thì những nhà chung quanh đây ai có rổ, rá, nia hư tao đều nức lại cho hết. Cũng vui. Cắn chặc cặp vành giữa hai hàm răng rút mạnh sợi mây, nghe kêu rắc rắc... thú vị và sung sướng vô cùng. Có nhiều khi cũng tức vì nửa chứng đứt mây”.
Thằng Đề cười hì hì. Tôi kể cho hắn nghe mới đây thôi, tôi đang ngồi dựa cột đọc báo trên thềm nhà, hai ba ông bệnh nhân với mấy người hàng xóm, người đứng người ngồi uống nước chè nói chuyện giữa sân, chị Thuận sửa soạn gì đó trong nhà, ông Lai gù vai xuống hậm hực bước lên thềm, không nhìn tôi nói lắp bắp: “Anh... anh nên học đan đát đi. Tôi nói thật, những người như anh sau này không ai dùng đâu”. Tôi nghe tiếng ông già người Quảng Ngãi đang ngồi đan rá ngoài sân: “Mệt quá, ông Lai ơi! Gì đâu không”. Ông Lai hỷ mũi bước nhanh vào nhà.
Thằng Đề cầm gói thuốc xắc mân mê những sợi thuốc nói:
“Mi hút thuốc nhiều quá. Tao cũng cố bớt dần. Thuốc này mi kiếm đâu ra đây?”
“Ừ, bây giờ tao chỉ có thuốc với trà. Tao thường ngồi hút thuốc uống trà một mình, ngó trời đất cây cối, xem bọn trẻ con chơi đùa, cãi nhau. Thuốc đó tao nhờ bà chủ nhà mua ngoài lò sấy. Mua dễ lắm, một xấp có ba bốn hào. Tao chỉ hút được loại 2, loại 3, loại 1 quá nhẹ. Có khi mấy ông xã viên hàng xóm cho cả một bó”.
“Này, thằng Đề uống một ngụm nước, hai môi chúm lại, này Đính, lúc hỏi cung mi, bọn hắn có nói chi tao không?”
“Có, có. Bọn nó hỏi tao lúc lên K65 gặp ai. Tao bảo lên thăm ở chơi với mi và thằng Minh mấy ngày”.
Hắn chím môi cười hỏi:
“Này, tụi Thừa Thiên hắn đối xử với mi ra răng?”
“Ui chào, tụi hắn cho tao làm nhục, bôi xấu quê hương. ‘Cái đồ nó sống làm chi cho dơ dớp’. Có đứa nhổ nước miếng ngay trước mặt tao. Chẳng có một thằng người Thừa Thiên nào đến chơi với tao hết”.
Thằng Đề ngồi nói chuyện với tôi một lúc nữa rồi về. Hắn đi nhờ xe đạp một người khác cũng đến đây thăm bạn.
Mãi hơn hai năm sau tôi mới có dịp gặp hắn ở Hà Đông. Thằng Đề là một thằng rất lạ. Hình như hắn có cái gì đó hơi rắc rối trong cuộc sống riêng tư và trong gia đình nên trong cách cư xử với những người khác nhiều khi hắn có vẻ khắc khổ. Sau này về Huế có dạo tôi gặp hắn luôn, rồi biệt đi có hàng tháng hắn mới ló mặt gặp anh em. Hắn cứ vội vàng nhưng xét ra cũng chẳng có việc gì đến nổi hắn phải hấp tấp.
Hàng tuần thường có người từ bệnh viện E2 ở Hà Nội, E1 ở Thạch Thất chuyển đến, và những người ở đây chuyển đi nơi khác. Những người thương tôi cũng dần dần đi hết. Những người mới đến bao giờ cũng được chi bộ cho biết về tôi để cảnh giác và canh chừng. Hôm nào có người mới đến bao giờ ở nhà ăn cũng có người chỉ chỏ tôi thì thầm: “đó, hắn đó”, “thằng nó đó”. Phần nhiều những người mới đến đối xử với tôi ít căng thẳng, vì họ là những người không dự cuộc đấu tố tôi. Hơn nữa, do hoàn cảnh sơ tán ít thấy nhau, nên cũng đỡ cho tôi.
Hôm đó, Lịnh, Kim và Hiếu đến chơi. Lịnh nói:
“Hôm kia mít tinh bọn tôi không thấy anh. Sáng nay họp chi bộ tôi có hỏi mấy ông: Vì sao không để anh Đính dự mít tinh? Mấy ông trả lời: “Lệnh của Cục bảo vệ Đảng của Ban thống nhất Trung ương không cho anh Đính tham dự bất cứ một cuộc họp nào”. Có ông nói: “Mít tinh kỷ niệm Quốc khánh (?), thằng Đính không xứng đáng để tham dự”. Tôi không đồng ý: “ở trong tù bọn địch bắt chúng ta phải chào cờ ba que của chúng. Chúng ta phải để cho anh Đính tham dự mít tinh để chào cờ. Mà anh Đính đâu phải địch. Chúng ta không nên quá hẹp hòi và phải cao thượng. Các đồng chí làm như thế khó mà cảm hóa được người khác”. Có một ông đã nói: “Đối với thằng Đính cho nó sống được như thế này là may cho nó lắm rồi”.
Tôi nói:
“Nói thật, lúc này mà tôi phải ngồi giữa đám đông những người ở trong K này, cũng cực cho tôi...”
Kim hỏi:
“Tôi nghe nói có một người tên Tấu hay Tấn gì đó cùng quê với anh nói rằng lúc còn ở thị xã Sơn Tây, anh đã đến phòng của anh ta chơi, trong lúc nói chuyện anh đã kể cho một số người nghe nội dung một cuốn phim Mỹ. Anh ta bảo lúc đó và những người khác không để ý gì về chuyện đó. Nhưng sau khi biết về con người anh, anh ta mới thấy anh là một tên nguy hiểm. Anh ta đã báo cáo cho lãnh đạo khối bệnh nhân biết nội dung cuốn phim mà anh kể là phản động, đồi trụy. Và anh bị kết án là đã tìm cách đầu độc thanh niên bằng phim ảnh của Mỹ ngụy. Các chi đoàn đã họp để vạch trần những tư tưởng phản động chống Đảng của anh và phát động trong toàn các chi đoàn một đợt căm thù tội ác của Mỹ ngụy và cảnh giác những âm mưu thâm độc của chúng”.
Tôi mở miệng như cười, rồi thở ra một hơi:
“Tôi biết anh ta, tên của anh hơi khó nhớ, Tấn, Tấu gì đó. Anh ta người cao, ốm, đen, tóc quăn, ít nói, hoặc nói không ra tiếng. Dạo sau này gặp tôi, hắn giả vờ không thấy, rồi lãng đi. Hắn sợ liên lụy. Trước tôi thỉnh thoảng có nói chuyện với hắn. Có một lần đến chơi ở phòng hắn, tôi có kể cho hắn và một cô bé tên Phương người Quảng Ngãi, cụt cánh tay phải với một hai người nữa nội dung một cuốn phim mà tôi đã xem ở Huế. Đó là phim La Strada của một đạo diễn người Ý, Federico Fellini. Ờ, thì ngồi với nhau nói chuyện chơi, tôi luôn miệng cũng kể cho vui. Nhiều khi còn kể chuyện ma nữa chớ”.
Nói xong tôi cười ra tiếng, Lịnh nói:
“Người ta cho là anh đã bị nhiễm nặng tư tưởng tư sản phản động, khó mà gột rửa được”.
Rồi Kim hỏi:
“Chắc anh muốn đi khỏi đây cho đỡ căng thẳng?”
“Đâu cũng thế thôi. Mà tôi đâu có muốn cái gì được”.
Tất nhiên tôi không thể nói hết suy nghĩ của mình với những người bạn này. Cũng phải bán tín bán nghi chớ. Lâu ngày quá, tôi cũng quen đi cái không khí của những người chung quanh đối xử với tôi như thế.
Một hôm ăn cơm xong tôi ngồi trước sân uống nước cho mát. Một ông nào đó tôi không quen mặt, đến kéo ghế ngồi cạnh tôi. Tôi đoán ông ta là cán bộ của Cục đón tiếp cán bộ B. Ông ta nói ngay liền:
“Tôi tiếc cho anh quá. Nếu anh không phạm những sai lầm nghiêm trọng vừa qua thì anh đã được đi tham quan ở nước ngoài rồi. Anh Nguyễn Viết Trác cũng đang chuẩn bị đi Hungary đó”.
Ông ta còn nói thêm một lúc nữa. Tôi ngồi yên uống nước không nói gì hết. Rồi ông ta đứng dậy chào tôi đi.
Tôi thường hay bị hành hạ bằng những cuộc nói chuyện chán ngắt, nhưng vẫn không đứng dậy đi được, phải ngồi im nghe. Và, những lúc đó, tôi chỉ thấy chung quanh mình, bàn ghế, bình chén, đất đá cây cối. Những lúc đó, tôi cứ nhìn chăm chăm một viên sỏi, một cục đất, một rễ cây ở xa, ở ngoài xa, ở ngoài tôi và người tôi đối mặt.
Một đêm tháng 12.1972, Mỹ đánh B52 Hà Nội. Tôi đang nằm liền vùng dậy chạy ra sân. Lửa chớp sáng rực một dãy dài phía trên nóc nhà chị Thuận. Tiếng nổ xa từng trận không dứt, rầm rầm.
“B52 rồi!”
Những nhà chung quanh người ta gọi nhau thức dậy. Tôi hỏi anh Đại và anh Sinh, những người hàng xóm của chị Thuận:
“Hướng đó có phải là Hà Nội không?”
“Đúng là Hà Nội”.
Lửa trên trời phía trên Hà Nội cứ chớp liên tục, đỏ ối.
Tôi cảm thấy mình như tức thở và trong người xôn xao.
Mỹ đánh B52 Hà Nội 12 ngày đêm, hiệp định Paris, tôi vẫn ở Cam Đà. Những ngày mùa hè nóng rát da ở đây như vẫn còn lại trong trí nhớ của tôi đầy đủ những cảm giác mệt mỏi buồn chán và xúc động. Tôi thường nằm trên đám lá tre khô trên bờ ao sát cánh đồng. Buổi trưa nhiều khi gió rất nhiều. Tôi nhìn mấy cây chuối mọc cheo leo bên bờ nhớ lại những ngày còn nhỏ của tôi ở Vỹ Dạ. Bây giờ chắc mẹ tôi vẫn còn đi bán cháo ở ngoài chợ hay trên Đập Đá, dưới hàng hiên Morin ngoài đường Lê Lợi. Chiều nào cũng thế đi học ở trường Thế Dạ về, tôi nấu cơm rồi in đầy một đọi, xé miếng lá chuối đậy lại, một tay bưng cơm, một tay cầm cây đèn bóng đem ra chợ cho mẹ tôi. Năm lớp nhì, lớp nhất, bốn năm ở Bồ Đề, ba năm ở Quốc Học, công việc đó đối với tôi hàng ngày vẫn cứ đều đặn. Cho đến năm 1962, tôi đậu tú tài và đi dạy học ở trường bán công Truồi, thỉnh thoảng lúc nào rảnh tôi mới bới cơm và mang đèn ra chợ cho mẹ tôi. Vào nhà tôi ăn cơm một mình, lấy sách vở ra học bài, rồi đóng cửa lại leo lên ngựa nằm ngủ. Khoảng 10 giờ là sớm nhất, thường khi là 11, 12 giờ, có khi 2, 3 giờ sáng, có tiếng chó sủa ngoài xóm, rồi có tiếng hò, rồi một ánh lửa lúc sáng lúc tối, lúc mất lúc còn lấp loáng qua hàng chè tàu, mẹ tôi về. Tiếng hát vẫn kéo dài mệt mỏi, áo não cho đến khi mẹ tôi đặt gánh xuống đất, kéo vạt áo lên lau mặt. Những đêm mùa đông mưa to mới thê thảm. Có khi đến 2 giờ sáng mẹ tôi mới về. Lửa trong lò vẫn đỏ chập chờn. Cháo còn, lòng còn. Mẹ tôi bảo: con với mấy đứa ăn hết cháo đi. Còn lòng với thịt thì cái ni xắc ăn hết, còn cái ni luộc lại cho mạ, không thôi siu. Mạ tôi đi nằm. Tôi kêu thằng Bé, thằng Vinh, anh Tân, những người bạn nghèo khổ hàng xóm tới ăn cháo. Cháo lúc đó bao giờ cũng ngon. Bốn năm giờ sáng mẹ tôi dậy đi lấy lòng. Tôi múc nước đổ vào khương đặt lên bếp, nhen thêm một bếp bắc ấm nước sôi, chế trà. Có mùa mẹ tôi đi bán sớm, có mùa đi bán chiều, mà cũng còn tùy cháo lòng cháo gà hay cháo vịt nữa. Những buổi trưa ngồi lặt rau sống, những buổi chiều buổi tối ngồi một mình, mẹ tôi hay hát, khi thì hò mái nhì mái đẩy, khi thì ru em, những câu hát buồn đau đớn. Mẹ tôi hát và khóc một mình. Những câu hát đó cứ luẩn quẩn mãi trong trí tưởng tôi suốt cả đời.
Đêm khuya dựa gốc cây bòng
Nước chua gió xuống động lòng em đau
Như lúc này đây tôi đang nằm ở dưới hàng tre ở cái xứ sở xa lạ này, những câu hát đó vò xé ruột gan tôi. Những câu hát đó lại chập chờn trong ánh lửa thấp thoáng, và mẹ tôi như một bóng ma, trên vai một gánh cháo mệt mỏi thất thểu giữa đêm khuya mưa gió, rồi thắp một nạm hương ra sân khấn vài trời đất, khấn vái ba tôi phù hộ cho tôi còn sống. Sau này tôi mới biết, vì không chịu nổi cái cảnh trống vắng, cô quạnh của cảnh nhà mà nhìn đâu cũng thấy như tôi có ở đó, mẹ tôi đi bán thỉnh thoảng ngủ luôn ngoài chợ Vỹ Dạ.
Lần khảo tra tôi ở Hà Nội, thằng cha Lai hỏi vặn tôi: “Anh khai man lý lịch, anh nói mẹ anh bán cháo ở chợ Vỹ Dạ là nói láo. Chúng tôi biết là mẹ anh mở một tiệm ăn rất lớn ở Huế”. Tôi nói: “Lúc tôi đi, mẹ tôi bán cháo ngoài chợ. Lâu nay tôi không liên lạc được với gia đình, tôi không biết gì hết”. Những cái ông này bao giờ cũng muốn cho người ta nghèo khổ mãi để cho lý lịch được trong sạch. Có nghèo khổ mới căm thù đế quốc, tư bản, mới trung thành mãi mãi với họ, với cách mạng.
Tôi cứ sống âm thầm một mình thế này, hết đọc sách, đọc báo lại quanh quẩn qua các nhà hàng xóm uống nước nói chuyện, ngồi xem mấy đứa trẻ chơi đùa. Tôi kiếm giấy báo cũ xếp tàu bay, tàu thủy cho chúng chơi. Nhiều khi muốn lên chùa Tây Phương xem cho biết, nhưng phải báo cáo, xin xỏ mấy ông lãnh đạo, tôi cũng chán nên thôi. Cô Xiêm thỉnh thoảng lén cho tôi Ka-vet, Bismuth.
Một buổi chiều tôi sang nhà anh Cận chơi. Cụ thân sinh anh Cận và anh đang ngồi uống nước trên bức phản kê sát thềm nhà, thấy tôi ông cụ gọi:
“Chú Đính vào uống chè”.
Tôi dạ. Chuyện qua lại một lát. Ông cụ hỏi:
“Chắc mấy bác, mấy chú sắp trở về thị xã rồi chớ gì?”
Anh Cận nói:
“Mỹ hết đánh bom rồi, các anh cũng không còn ở đây lâu nữa đâu”.
Ông cụ nói:
“Chú Đính ạ, tôi cũng như bà con quanh đây, chú Sinh, chú Đại, cô Thuận đều biết tình cảm của chú. Chú sống ở đây dễ gần một năm rồi. Có một lần, nói thật với chú, tôi mượn chén rượu làm như tình cờ ngồi nói chuyện với bác Lai. Tôi nói thế này: bác Lai ạ, việc của mấy bác chúng tôi không dám xen vào, nhưng tôi thấy giữa chú Đính và mấy bác ở đây có một sự khác biệt về cách đối xử. Các bác, các chú cũng là người ở chiến trường ra cả, đối xử với nhau như thế cũng không phải cho lắm, củi đậu mà lại nấu đậu, tôi thấy đau lòng lắm. Chú Đính có những chuyện gì đó chúng tôi không rõ, tôi chỉ xin nói với bác Lai điều này. Thời gian ở đây chú Đính là một người rất tốt, bà con ai cũng thương. Bác Lai với bác Nhã sống gần với chú Đính, sau này xin bác báo cáo lại với tổ chức như thế. Nghe tôi nói thế, ông Lai làm thinh, chỉ ậm ừ những gì đó rồi nói lãng qua chuyện khác”.
Anh Cận nói:
“Nhiều lần nói chuyện với anh tôi cũng hiểu được một phần nào hoàn cảnh của anh. Bác Nhã cũng đã nói cho tôi biết một ít về anh. Bà con chung quanh họ thấy chứ. Anh không được đi họp, không được khám bệnh, không được phát thuốc, đi đâu ra khỏi đây cũng có người đi theo. Bọn trẻ con bảo, chúng cháu thấy chỉ có bác Lai là được khám bệnh và phát thuốc không thôi. Mà bác Lai lại hay nói tiếng to và nặng lời với chú Đính. Còn chú Đính thì làm thinh. Nói thật với anh, tôi thấy ông Lai thế nào a. Ở đây chẳng có ai có cảm tình với ông ấy”.
“Cũng may cho tôi, về ở đây có bớt căng thẳng hơn ở thị xã. Tôi cảm ơn hết sức tấm lòng của ông cụ, của anh, chị Thuận và bà con... với mấy cháu Xuân, Thu, Lan, đĩ Bình, đĩ Sinh...”
Viết đến ngang đây, tôi như đang sống những ngày đó ở Cam Đà với những con người mà tôi vừa kể tên, tôi thấy rõ từng nét mặt, hình dáng, cửa chỉ, giọng nói của mỗi người...
Buổi chiều trước khi sáng mai về lại K65 ở thị xã Sơn Tây, tôi nói với ông Lai lấy cơm về ăn chung một bữa với gia đình chị Thuận cho vui. Tối đó, nhà nào cũng mời tôi uống nước nói chuyện. Anh Cận cho tôi một lạng chè và một gói thuốc rê. Chị Thuận cho tôi một bó thuốc lá ngon. Chị nói:
“Khi nào có ai về Sơn Tây tôi gửi thuốc cho chú. Mà chú hút thuốc nhiều quá”.
Tôi nói với chị, chị thông cảm cho tôi, về thị xã rồi tôi khó có dịp trở lại thăm chị với các cháu.
“Thôi, khi nào về thị xã, chúng tôi sẽ ghé thăm chú”.
Nói thế, nhưng tôi biết những người ở thôn Cam Đà này có người năm sáu năm chưa khi nào đặt chân đến thị xã.
Sáng hôm sau tôi dậy sớm cùng bác Nhã đi từ giã hàng xóm. Anh Cận bắt tay tôi:
“Chúc anh mạnh khỏe. Tôi mong mọi sự đều tốt đẹp cho anh. Tôi hy vọng sau này có dịp vào Huế”.
Tôi để lại phần bánh mì buổi sáng và buổi trưa cho mấy đứa nhỏ. Tôi xoa đầu đĩ Xuân và đĩ Thu, rồi bế đĩ Lan lên:
“Chú Đính về thị xã nghe. Khi nào có dịp chú lên thăm mấy cháu. Chúc các cháu học thật giỏi”.
Chị Thuận rơm rớm nước mắt:
“Bác Lai và chú Đính uống một bát chè xanh rồi đi”.
Chị quay vào buồng, rồi trở ra:
“Tôi phải ra đồng đây. Bác Lai và chú Đính lên đường mạnh khỏe”.
Anh Sinh, anh Đại, anh Cận mang đồ đạc giúp tôi và ông Lai ra xe. Chị Thuận vác cuốc đi theo, đến ngã rẽ ra đồng, chị nói:
“Chú đi mạnh khỏe, chú Đính nghe. Không lên đây chơi được, chú nhớ viết thư. Mấy đứa nhớ chú lắm đấy”.
Hình như trước ngày chuyển lên K100 một hai hôm tôi có đuồng theo xe đạp một người nào đó lên Cam Đà thăm bà con.
Chú thích:
[1] Số Đảng viên ở K65 có trên 80 phần trăm.
[2] Bài này in trong tờ Cờ Giải Phóng - Cơ quan của Mặt trận Dân tộc Giải phóng thành phố Huế, tháng 5-1969, sau đó một tờ báo nào đó ở Hà Nội in lại.
[3] Mấy câu này tôi viết về mẹ tôi, sau tôi làm đề từ cho bài này.
[4] Khi đăng lại tờ báo ở Hà Nội sửa lại câu “còn tôi tên lính nhỏ” thành “còn tôi người lính nhỏ”.
5] Tôi thường hay viết những bức thư trong các tập vở hoặc giấy rời cho những người mà tôi tự đặt ra những cái tên A, B.... nào đó, trình bày những suy nghĩ của tôi về miền Bắc, cảnh vật, sinh hoạt của dân chúng ở những nơi tôi đến, sinh hoạt hàng ngày của tôi, có khi nhắc lại những kỷ niệm của tôi với bạn bè, ở trong rừng, ở Huế, lúc còn đi học... Tất nhiên những bức thư này không bao giờ tôi gửi. Viết thư như một cách ghi chép, viết nhật ký của tôi, nhưng dưới hình thức đối thoại, nói chuyện. Cách này lâu nay tôi vẫn hay làm. Ông Lai đã dẫn ra một số đoạn trong những bức thư này và cho đó là thư tôi gửi cho bạn bè ở trong Nam.
[6] Quê hương đây là Thừa Thiên. Người phát biểu là một người quê ở Thừa Thiên.
[7] Người phát biểu này tôi nhớ không rõ tên, là Hoàng Hương Việt hay Hoàng Việt Hương. Anh ta người Quảng Nam, sau này có đi học một lớp báo chí ở trường Tuyên huấn Hà Nội thì phải. Khi anh ta nói có tiếng xì xào “anh gì mà anh, tên Đính thôi”.
[8] Chắc anh ta nhầm tôi với một người nào đó.
[9] Anh ta có kể một số tên mà anh ta liệt vào bọn bồi bút ở Sài Gòn. Tôi không ghi lại nên không nhớ.
[10] Đây là phát biểu của một người tên Hoàng Hương Việt hay Việt Hương gì đó
[11] Ông này tên Điềm, bác sĩ trưởng K, người ở Nghệ An hay Thanh Hóa tôi không rõ.
[12] Có thể chỉ Đài Phát thanh Cờ đỏ, công cụ chiến tranh tâm lý loại “xám” của Mỹ hoặc Việt Nam Cộng hòa trước năm 1975. BT
[13] Phát biểu của cái anh tên Việt.
[14] tức cán bộ ở chiến trường miền Nam.
[15] Tôi viết lại dưới đây bản kiểm điểm ghi tóm tắt những ý chính, thường gọi là gạch đầu dòng của tôi đã được hai ba ông trong đoàn khảo tra tôi hướng dẫn từng điểm, từng chữ, sửa lui sửa tới mấy lần.
[16] Tôi được hướng dẫn phải thêm vào: vì tự cao tự đại.
[17] Có lẽ ông ta căn cứ vào bài thơ “Những con đường đã đi qua và những con đường sẽ đi tới” của tôi làm năm 1968.
[18] tức Hồ Tính Tình
[19] Hiên nhà (BT)
[20] Họ là công an, Ban Bảo vệ Đảng, Cục 78... tôi cũng chỉ được và phải viết, như họ đã tự xưng, Cục đón tiếp cán bộ B
21] Ông Thanh gạch dưới hai chữ suy nghĩ và ghi ngoài lề: hành động
[22] Ngoài lề đoạn này có ghi chú của ông Thanh: “từ đó mà đã chống đối thế nào, nay nhận thấy sai lầm, vì sao, phân tích”.
[23] Ghi chú bên lề của ông Thanh: “từ đó đã xuyên tạc, chống đối ra sao, nay thấy sai lầm chỗ nào, phân tích”.
[24] Ông Thanh đánh dấu x ở đây và bảo tôi: “anh viết thế này chưa đủ và thiếu thành khẩn”.
[25] Hai chữ bất mãn là do ông Thanh bảo tôi thêm vào
[26] Ông Thanh ghi: ai? Nêu rõ; và ở ngoài lề: còn kết tội và đả đảo, treo cổ và bắn, xem là kẻ thù như thế nào? Tôi có nói với ông Thanh thế này: hôm ở K65 tôi đã có nói cho các anh biết ý của tôi là thế này: hễ mỗi lần những nhà nghiên cứu, phê bình văn học lúng túng, tìm không ra lối thoát khi bình giải thì lại trích dẫn ra những tên Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng... làm bằng cứ và bùa phép... Tên ở đây có nghĩa là tên tuổi. Ông ta không chịu. Ông ta chỉ nói một cách đơn giản: Anh phải viết theo sự góp ý của tôi
[27] Milovan Djilas (1911-1995) Lãnh tụ chính trị và nhà văn Nam Tư. Cuốn Giai cấp mới đã đăng trong Tủ sách talawas (BT).
[28] Ông Thanh ghi thêm: cụ thể?
[29] Ông Thanh ghi: học sao?
[30] Chỗ hắn ở cách chỗ tôi một bức tường ngay góc khay của tòa nhà.
[31] Sau này rất lâu, tôi mới biết là cái ông Bí thư Đảng ủy này lúc về Từ Hồ học bổ túc văn hóa bị phát hiện là mang khai lý lịch và bị tước Đảng tịch.
[32] Chắc là anh ta phải ra ngoài thị xã nhờ người quen là áo quần. Thời buổi này mà mặc quần áo là cũng là một kỳ công.
[33] Ba bốn tháng sau tôi được phân công đi mua hàng tiêu chuẩn hàng tháng thuốc lá, sữa, đường... của tổ. Chỉ có lúc đó tôi mới tiếp xúc và nói qua nói lại tự nhiên với mọi người. “Anh còn thiếu tôi năm hào”, “bác còn thừa một đồng”, “căng tin bảo tháng này không có chè loại một”, “thuốc hút chưa có đủ, nên căng tin tạm ứng mỗi người năm bao”...
[34] Cho đến sau này năm 1988, có người trên báo Công An Bình Trị Thiên, khi phê bình bài thơ “Người đàn ông 43 tuổi nói về mình” của tôi vẫn còn gọi tôi là một con chó, con tô, con mực gì đó.
[35] Khoảng tháng 5 tháng 6 năm 1972.

No comments:

Post a Comment